9. Làm giáo dục và văn hóa theo tư tưởng của Bác
Tháng 10-1955, Trung ương giao cho tôi chức vụ Phó ban Tuyên huấn Trung ương kiêm Thứ trưởng Bộ Giáo dục cùng làm việc với anh Nguyễn Văn Huyên, Bộ trưởng, và anh Nguyễn Khánh Toàn, Thứ trưởng.
Một hôm, tháng 6-1963, Bác gọi lên, nói: “Chú làm giáo dục quen rồi. Giáo dục có nền nếp. Bây giờ Trung ương muốn điều động chú giúp ông Hoàng Minh Giám làm công tác văn hóa và phụ trách các đội văn nghệ. Công tác giáo dục có sẵn nền nếp. Ai đậu bằng gì thì dạy trường nào, lớp nấy. Tiếp xúc các nhà giáo cũng dễ. Văn hóa, văn nghệ thì không tiếp xúc được tập thể. Họ đòi tình cảm là chính. Phê bình họ, phải lý, tình đi đôi với nhau. Làm họ buồn, họ không sáng tác được. Chú có cái nhược điểm hay nói thẳng. Chú trực tính, được cái là không để bụng, không trù dập ai. Nói thẳng là tốt nhưng phải lựa lời mà nói.
Gặp nhà giáo, chú có thể gặp tập thể. Gặp văn nghệ sĩ, chú phải gặp riêng từng người một. Nói chung, lãnh đạo ai cũng vậy, phải có lý có tình. Đối với văn nghệ sĩ, phải có tình trước mới đưa họ vào lý. Công việc của chú giờ khó hơn trước nhiều. Rốt cuộc, mình hiểu biết anh em, coi trọng anh em thì anh em coi trọng mình, nghe mình.
Văn nghệ sĩ góp phần rất nhiều trong việc đào tạo con người mới. Ngành giáo dục cũng đào tạo con người, nhưng chủ yếu về phần trí tuệ. Bộ chưa thực hiện được sự kết hợp sản xuất và học tập là còn phạm thiếu sót quan trọng. Chúng ta đào tạo các cháu thành những con người biết cải tạo đời, yêu lao động. Học để cải tạo đời mà không tham gia lao động sản xuất thì không cải tạo đời được. Yêu lao động mới yêu nhân dân, yêu khoa học, yêu Tổ quốc, yêu đạo đức”.
Ngành Văn hóa, Giáo dục tình cảm là chủ yếu và giáo dục nếp sống lành mạnh. Tư tưởng biến thành nếp sống hàng ngày. Bác còn sáng tạo ra phong trào xây dựng người tốt việc tốt.
Bác Hồ dặn ngành Giáo dục chúng tôi: “Các chú phải đào tạo con em thành những người cộng sản và là người cộng sản Việt Nam”. Bác giải thích: “Hoa hồng vùa thơm, vừa đẹp. Nhưng nếu cho các chú vào thăm một vườn trồng toàn là hoa hồng đủ loại thì đi xem một hồi cũng chán. Lúc đó lại muốn có những cây chỉ có lá không có hoa”.
Như vậy, Bác Hồ đã chỉ thị cho chúng ta phải xây dựng nền giáo dục và nền văn hóa Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Học đạo đức cách mạng của Bác Hồ là chúng ta phải lao động, yêu quý lao động, tôn trọng lao động, tăng cường trình độ và kỷ luật lao động. Không học tập, nâng cao trình độ hiểu biết khoa học – kỹ thuật tiên tiến, ra sức thi đua sáng tạo, nâng cao năng xuất và chất lượng lao động thì là tổ phá hoại.
Giữ gìn và nâng cao phẩm chất cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân là vấn đề rất cơ bản của con người xã hội chủ nghĩa để góp sức xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công.
Chúng ta quyết tâm đoàn kết giữa các tôn giáo và học điều phải với nhau, phát huy sâu rộng dân chủ, bình đẳng giúp đỡ nhau, thực hiện ý nguyện chung của nhau.
Xây dựng một đại gia đình trong đó người với người là anh chị em với nhau cùng nhau tiến lên mãi.
Việt Nam quyết là sự tổng hòa (synthèse) của tinh hoa dân tộc và loài người.
Hà Huy Giáp kể
(Trích theo sách: Bác Hồ sống mãi với chúng ta, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005
10. Bác Hồ nói về làng mỹ nghệ
Tháng 2-1964, nhân dịp Hội nghị Trung ương lần thứ 10, tôi được giao nhiệm vụ tổ chức trưng bày những mặt hàng do Trường Cao đẳng Mỹ thuật Công nghiệp làm ra. Triển lãm trưng bày tương đối đầy đủ các mặt hàng, sản phẩm của học sinh và cán bộ, nghệ nhân trong trường.
Bác xem hàng đồ gốm và khen:
- Nên phát triển cái này, các cụ ta trước đây làm nhiều cái này. Đồ sành, đồ gốm nó chắc bền, đẹp và thật quý, chứ ta ít làm đồ sứ quá. Nhưng dù thế nào cũng phải bảo đảm tính dân tộc. Bác nghĩ một lúc rồi lại nói tiếp:
- À tính dân tộc. Bác chỉ vào cái chén và bảo:
- Ở đây ta chỉ có cái chén mà không có cái tách, cái tách là ngoại lai, cái tách là LA TASSE, cái chén không có cái tai. Các cụ uống trà, mời nhau thì bưng cái chén bằng hai tay, chứ không xách cái tai tách mà giơ ra mời (Bác vừa cười vừa làm hiệu), có uống cũng nâng chén lên, hai tay xoa xoa rồi mới uống, mà uống rất nóng. Đấy là dân tộc đấy.
Rồi Bác nói tiếp:
- Không những thế, nó còn tiện lợi. Chén không có tai, khi xếp chồng lại rất gọn vì không vướng cái tai, lại dễ rửa sạch vì cái bẩn thường cáu lại ở góc tai.
Bác lại chỉ vào cái ấm có quai bằng mây mà nói”
- Đây này, nên phát triển cái này mà không nên phát triển cái này (Bác chỉ vào cái ấm có tai). Cái này nó ở cái ấm tích và cái ấm đất của nông dân, cái này của ta. Phải tìm hiểu phong tục tập quán, cách dùng của ta mà ra kiểu. Đấy là dân tộc đấy.
Sau đó Bác hỏi có phải nhập nguyên liệu của nước ngoài không? Tôi thưa:
- Thưa Bác, đại bộ phận là ở trong nước ạ!
Bác bảo:
- Tốt, còn cái tí ti bộ phận kia cũng cố gắng giải quyết nốt đi thì tốt hơn. Ta có dùng được tất cả là của ta thì mới rẻ.
Nghĩ một lát, Bác cười bảo:
- Sao chú không nói phần lớn nguyên liệu mà lại nói là đại bộ phận?
Bác như người cha hiền từ chú ý bảo ban con cái. Bác rất vui và nhắc chúng tôi phải làm thật tốt, nhanh, rẻ, để phục vụ nhân dân.
Đến trước mấy bộ bàn ghế bằng tre, trúc, Bác bảo:
- Thế này rất tốt, xứ ta là xứ nóng, không nên làm mãi các loại ghế to có đệm, vừa nặng, vừa đắt tiền mà nóng quá không ai muốn ngồi. Nên làm nhiều loại bằng trúc vì ở nước ta tre trúc rất nhiều, dễ làm, ta khéo tay, có kiểu là có thể tự làm lấy được. Ghế làm bằng tre trúc vừa nhẹ nhàng, rẻ tiền, lại vừa sạch.
Đến trước một số hàng dệt, chủ yếu là hàng thổ cẩm, Bác bảo:
- Dân ta chưa mua được những thứ này đâu, nhưng nếu bán ra ngoài được nhiều thì nên bán, tốt hơn là bán tơ cuộn, nhưng phải làm thế nào cho nhanh, cho nhiều vì người ta còn cần nhiều máy móc.
Bác luôn tươi cười và đi xem rất tỉ mỉ, chỉ có mấy hôm mà Bác vào phòng trưng bày đến bảy lần.
Có một buổi trưa, tôi đến sớm dọn dẹp, đã thấy Bác xem xét. Bác thân mật hỏi chuyện tôi và bảo:
- Chú đợi đấy, Bác về lấy cho xem mấy thứ đồ của bạn tặng Bác.
Một chốc, Bác đã trở lại với một chạm gỗ, một biển chạm nổi bằng ngà voi, một chén sứ đưa cho tôi xem, bảo tôi nhận xét rồi nói:
- Đúng là khéo, thật khéo nhưng không đẹp! Bởi vì tham quá, rườm rà quá. Ta phải thấy cho đúng cái khéo của người ta mà học tập, những cái gì chưa tốt phải nhận ra, đừng có tự ti. Phải thấy rõ cái giỏi, cái quý của mình mà giữ lấy. Đây, Bác cho chú mượn một tuần để xem cho kỹ.
Người còn dạy bảo:
- Ta còn nhiều nghề quý như khảm trai ốc, chạm gỗ, thêu… Rất nhiều cái quý mà thợ giỏi cũng nhiều, nhưng bây giờ đều già cả rồi, các chú phải tìm lại, tìm những cụ già mà học, làm tốt lên, đừng có để mất đi.
Nguyễn Khang kể
(Tập sáng tác: Hội văn nghệ Hà Nội, tháng 5-1970)
11. Bác Hồ dạy học ở Pắc Bó
Sau năm 1941, tôi từ nước ngoài trở về Tổ quốc và được sống những ngày gần Bác ở Pắc Bó. Một trong những công tác trước mắt của Đảng lúc bấy giờ là phải tiến hành mở các lớp huấn luyện về Chương trình của Việt Minh, Điều lệ của Hội Cứu Quốc… cho các đồng chí cốt cán là người địa phương cũng như một số quần chúng trung kiên khác. Những học viên này phần lớn là người dân tộc Nùng, chữ quốc ngữ không biết, nghe và nói tiếng phổ thông chưa rành, trình độ nhận thức còn thấp. Do đó, một vấn đề quan trọng đặt ra trong trong các thời kỳ huấn luyện là phải dạy văn hóa cho người học và thông qua dạy văn hóa mà tuyên truyền đường lối cách mạng. Tôi và anh Lê Quảng Ba, anh Bảo An… được Bác chỉ định làm “thầy giáo”. Chúng tôi tổ chức thành một đội “giáo viên xung phong”.
Mở lớp học thế nào đây? Bác giục tôi vạch kế hoạch mở lớp huấn luyện và báo cáo cho Bác nghe. Tôi vô cùng lúng túng, Bác vẫy tay gọi tôi lại gần và ân cần hướng dẫn cho tôi một cách cụ thể, suy nghĩ chung quanh mấy điểm: 1- Huấn luyện cho ai? 2- Huấn luyện những gì? 3- Huấn luyện trong bao lâu? 4- Huấn luyện ở chỗ nào? 5- Lấy gì ăn để mà huấn luyện? mà làm.
Bác bận trăm công nghìn việc những vẫn rất quan tâm tới lớp học. Bác quy định cho chúng tôi: Mỗi tuần lễ, ít nhất là một lần phải báo cáo với Bác về tình hình học tập, sức khỏe của anh em: Ai còn phải học vần, ai đã bắt đầu học chữ? Ai làm tốt, Bác khen, ai làm chưa tốt, Bác uốn nắn, bổ khuyết ngay. Bác luôn căn dặn cán bộ là phải nêu cao cảnh giác, tránh đi lại đông người, lớp học cần phân tán ra. Bác đặc biệt lưu ý đến công việc giảng dạy của đội ngũ “giáo viên xung phong”. Có khi Bác kiểm tra kết quả công việc của người thầy bằng cách thăm dò tư tưởng của học viên xem thầy giáo dạy họ có hiểu không? Có anh em lắc đầu, bảo khó hiểu. Thú thật là chúng tôi lo lắm. Gặp tôi, Bác nói ngay: Làm thầy thì phải hiểu trò. Các chú lên lớp mà cứ thao thao bất tuyệt chuyện trong nước và thế giới thì không ai hiểu đâu. Ở đây, trình độ học viên khác nhau, già có, trẻ có, ta phải cân nhắc đâu là nội dung chính cần phải dạy và dạy cái gì cho thật thiết thực, dễ hiểu. Ví dụ: Chỉ cần học một số nước lớn thôi. Nước ấy diện tích và dân số bao nhiêu? Thủ đô là gì? Khí hậu và sông núi thế nào?... Học tính cũng thế, cộng, trừ, nhân, chia phải cho chắc. Tránh lối nói tràn lan. Giảng xong phải hỏi xem họ có tiếp thu được không? Giảng một lần, học viên chưa hiểu thì phải giảng đi giảng lại nhiều lần. Họ không quen viết chữ hoa thì phải cầm tay hướng dẫn cho họ viết, vài lần sẽ thành quen. Ai có tiến bộ, phải kịp thời động viên, nếu không khi gặp khó khăn họ dễ nản trí.
Chúng tôi phấn đấu theo phương châm dạy học của Bác: Tinh giản, dễ hiểu. Trình độ học viên quá thấp, làm cho họ nắm được điều mình muốn nói thật không phải là dễ dàng. Giảng giải về hệ thống tổ chức của Việt Minh, tôi phải lấy bìa cứng cắt ra thành nhiều miếng nhỏ hoặc lấy ngô hạt bỏ vào bị, đi đâu cũng đeo kè kè bên mình (anh em cứ cười tôi mãi!), dùng làm… đồ dùng giảng dạy!
Cao Hồng Lãnh, Dương Đại Long,
Nông Thị Trưng, Viết Dân, Dương Đại Phong, Bảo An kể
(Trích theo sách: Chúng ta có Bác Hồ, Nxb. Lao động, Hà Nội, 1999)
Mỹ Linh (st)