Với đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, Đảng ta đã huy động được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; sức mạnh của tiền tuyến lớn miền Nam và hậu phương lớn miền Bắc; kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh ngoài nước, tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ chí tình của nhân dân và bạn bè quốc tế, đặc biệt là các nước XHCN anh em, tạo nên sức mạnh tổng hợp để đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược cùng bè lũ tay sai.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (1976), Đảng ta khẳng định: “Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả tổng hợp của một loạt nhân tố tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam. Nguồn gốc của mọi nhân tố ấy chính là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta”; mà “trước hết là thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo của Đảng”(1) . Với đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, Đảng ta đã huy động được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; sức mạnh của tiền tuyến lớn miền Nam và hậu phương lớn miền Bắc; kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh ngoài nước, tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ chí tình của nhân dân và bạn bè quốc tế, đặc biệt là các nước XHCN anh em, tạo nên sức mạnh tổng hợp để đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược cùng bè lũ tay sai.
Đoàn kết là truyền thống quý báu, là cội nguồn sức mạnh của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó được hun đúc, hình thành và phát triển bởi tinh thần yêu nước, ý chí độc lập, tự chủ của dân tộc ta trong quá trình đương đầu, chiến thắng mọi thiên tai, địch họa để xây dựng Tổ quốc Việt Nam ngày càng cường thịnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”(2). Sức mạnh đại đoàn kết dân tộc thực sự được nhân lên gấp bội khi ý thức dân tộc, truyền thống yêu nước của mọi tầng lớp nhân dân được soi sáng bởi chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam - chính đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, biết kế thừa truyền thống lịch sử quý báu của dân tộc, trung thành với lợi ích của nhân dân, kiên trì phấn đấu, hy sinh vì độc lập dân tộc, CNXH và hạnh phúc của nhân dân.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta là cuộc đụng đầu lịch sử giữa dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ; là cuộc đấu tranh một mất, một còn giữa chính nghĩa với phi nghĩa, giữa văn minh với tàn bạo, giữa cách mạng và phản cách mạng trong thế kỷ XX. Trong cuộc đấu tranh lịch sử ấy, nhân dân ta đã chiến đấu không chỉ vì quyền lợi sống còn của quốc gia, dân tộc, mà còn vì hoà bình, tiến bộ và sự phát triển của nhân loại. Để thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử, trước một nước đế quốc có tiềm lực kinh tế và sức mạnh quân sự khổng lồ, nhân dân ta triệu người như một, đoàn kết một lòng, đã phát huy truyền thống yêu nước, ý chí độc lập, tự lực, tự cường, tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, vượt qua mọi gian khổ, hy sinh, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào”, tiến tới giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên CNXH.
Hạt nhân của khối đại đoàn kết dân tộc là Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam; đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam; đã đề ra đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo. Để lãnh đạo nhân dân ta tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta xác định: Con đường cách mạng ở miền Nam phải là con đường cách mạng bạo lực; nhưng để chiến thắng một tên đế quốc đầu sỏ, chúng ta phải biết kéo địch xuống thang từng bước; thắng địch từng bước và đánh đổ từng bộ phận, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Trong đó, phương pháp cách mạng là sử dụng sức mạnh tổng hợp, gồm lực lượng vũ trang nhân dân và lực lượng quần chúng rộng rãi; tiến hành khởi nghĩa từng phần ở nông thôn và từ khởi nghĩa phát triển thành chiến tranh cách mạng; kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao; kết hợp nổi dậy và tiến công; thực hiện đánh địch trên cả 3 vùng chiến lược (rừng núi, nông thôn, đồng bằng và thành thị), bằng 3 mũi giáp công (quân sự, chính trị và binh vận); kết hợp 3 thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích) với phương châm chiến lược là đánh lâu dài, đồng thời tạo thời cơ mở những cuộc tiến công chiến lược, làm thay đổi cục diện chiến tranh để giành thắng lợi cuối cùng. Với đường lối đúng đắn và sáng tạo, Đảng ta đã huy động đến mức cao nhất lực lượng nhân dân cả nước, kết hợp tiền tuyến lớn miền Nam với hậu phương lớn miền Bắc, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn để đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng vũ trang nhân dân 3 thứ quân đã đoàn kết một lòng, không ngại khó khăn, gian khổ, sẵn sàng hy sinh, phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, truyền thống đánh giặc của cha ông, dũng cảm, mưu trí, đoàn kết, phối hợp với các lực lượng khác để chiến đấu, chiến thắng kẻ thù xâm lược. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, dân tộc ta phải đương đầu với nhiều chiến lược chiến tranh của Mỹ: “Chiến tranh đặc biệt”,“Chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hoá chiến tranh”... Để thực hiện các chiến lược đó, Mỹ đã huy động lực lượng quân sự hùng mạnh (70% lực lượng lục quân, 60% lính thuỷ đánh bộ, 40% lực lượng hải quân, 60% lực lượng không quân, 6,5 triệu lượt thanh niên Mỹ trực tiếp tham gia chiến tranh xâm lược Việt Nam), với đội quân đổ vào Việt Nam lên đến gần 55 vạn tên; sử dụng khối lượng vũ khí, bom đạn trang bị tối tân, vượt xa các cuộc chiến tranh trước đây. Đó là thách thức to lớn đối với toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Việt Nam. Nếu không có sự đoàn kết một lòng từ trong Đảng, lực lượng vũ trang đến toàn thể nhân dân thì Việt Nam không thể đương đầu và đánh thắng được kẻ thù có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh như Mỹ. Nhờ có sự đoàn kết thống nhất và sử dụng cách đánh mưu trí, sáng tạo, Đảng ta đã đưa nghệ thuật quân sự Việt Nam phát triển đến đỉnh cao, khoét sâu chỗ yếu, hạn chế chỗ mạnh của địch, đi đến đánh bại hoàn toàn các chiến lược chiến tranh của Mỹ. Trên khắp đất nước, nhất là trên chiến trường miền Nam (từ Quảng Trị, Tây Nguyên đến đồng bằng Nam Bộ), từ đất liền đến hải đảo, các lực lượng vũ trang của ta đã phối hợp chặt chẽ với mọi tầng lớp nhân dân để liên tục chiến đấu, giành nhiều thắng lợi. Cán bộ, chiến sĩ quân đội ta càng chiến đấu, càng trưởng thành về mọi mặt, thực sự là lực lượng nòng cốt quyết định, cùng toàn dân đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, các đơn vị chủ lực, bằng một loạt trận chiến đấu hiệp đồng binh chủng, đánh vào trung tâm trọng yếu của địch, làm cho chúng hoang mang cực độ và đi đến tan rã; bộ đội địa phương, dân quân du kích tích cực đánh địch khắp nơi, tiêu diệt và làm tan rã nhiều đồn bốt giặc, hỗ trợ lực lượng quần chúng nổi dậy giành chính quyền, đập tan bộ máy kìm kẹp của địch ở cơ sở. Lực lượng chính trị của quần chúng nổi dậy mạnh mẽ trên nhiều địa bàn, từ nông thôn đến thành thị, từ miền núi đến đồng bằng với nhiều hình thức phong phú, linh hoạt... tạo ra sức mạnh tổng hợp để đập tan ngụy quân, đánh đổ hoàn toàn nguỵ quyền, giành thắng lợi cuối cùng.
Trong thực tiễn, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc là một bức tranh đại đoàn kết dân tộc sinh động, kế thừa, hội tụ được những giá trị tinh hoa tốt đẹp nhất về đại đoàn kết dân tộc của cha ông ta qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước. Toàn thể dân tộc Việt Nam đã kết thành một khối vững chắc không gì có thể phá nổi. Đảng tin vào dân, dân tin vào Đảng; quân với dân một ý chí, cả nước đồng lòng, toàn dân ra trận, Nam - Bắc một nhà, tất cả vì mục tiêu “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Khối đại đoàn kết dân tộc thực sự là sức mạnh vô địch, là “vũ khí bách chiến, bách thắng”, đập tan mọi mưu toan chia rẽ của kẻ thù, đánh bại mọi ý chí của quân xâm lược. Để thực hiện đại đoàn kết dân tộc, phát huy sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân cho công cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất, lấy liên minh công - nông làm nền tảng, nhằm tập hợp rộng rãi mọi tổ chức, lực lượng, cá nhân, tạo nên sức mạnh tổng hợp, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Ở miền Bắc, tháng 9-1955, Mặt trận Liên Việt đổi tên thành Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân đồng lòng thực hiện mục tiêu đưa miền Bắc lên CNXH và đấu tranh thống nhất đất nước. Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Mặt trận đã phát huy được sức mạnh đoàn kết của 17 triệu nhân dân miền Bắc cho công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ miền Bắc; đánh thắng chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ ra miền Bắc, đồng thời chi viện đắc lực cho chiến trường miền Nam, phát huy vai trò quyết định của miền Bắc XHCN đối với công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trước hành động mở rộng chiến tranh xâm lược ra cả nước của đế quốc Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Hưởng ứng Lời kêu gọi của Người, với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”, trên khắp miền Bắc, các phong trào thi đua: “Mỗi người làm việc bằng hai vì đồng bào miền Nam ruột thịt”, kết nghĩa Bắc - Nam… được nhân dân ta nhiệt tình ủng hộ. Nhiều khẩu hiệu hành động, nhiều phong trào thi đua có sức động viên, tập hợp rộng rãi các lực lượng, ngành nghề, lứa tuổi trong mọi lĩnh vực sản xuất, chiến đấu, học tập, công tác đã xuất hiện và phát triển ngày càng sâu rộng ở nhiều địa phương. Nông dân ngày đêm bám ruộng đồng, “tay cày, tay súng”, hăng hái góp người, góp của cho kháng chiến. Công nhân bám nhà máy, công xưởng, “tay búa, tay súng”. Thanh niên nam, nữ nô nức hưởng ứng các phong trào: “Ba sẵn sàng”, “Ba đảm đang”; trí thức có phong trào “Ba quyết tâm”; các phụ lão thi đua “Ba giỏi”; thiếu niên, nhi đồng thi đua “Nghìn việc tốt”; các mẹ, các chị hăng hái tham gia “Hội mẹ chiến sĩ”,... tất cả để bảo vệ miền Bắc, xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, chi viện cho miền Nam, tất cả để chiến thắng.
Ở miền Nam, trước tình hình đế quốc Mỹ can thiệp ngày càng sâu với âm mưu chia cắt vĩnh viễn đất nước ta, ngày 20-12-1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam thành lập. Mặt trận chủ trương đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân, giai cấp, dân tộc, đảng phái, đoàn thể, tôn giáo và nhân sĩ, trí thức yêu nước... nhằm đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai của chúng; thực hiện độc lập, dân chủ, hoà bình, trung lập, tiến tới thống nhất Tổ quốc.
Dựa chắc vào khối liên minh công - nông, Mặt trận đã phát triển lực lượng ngày càng sâu rộng trong quần chúng cả ở thành thị và nông thôn, đồng bằng và miền núi. Mặt trận coi việc đấu tranh để cải thiện dân sinh, tự do, dân chủ, hòa bình, trung lập là những mục tiêu phù hợp để thu hút các tầng lớp trí thức, học sinh, sinh viên, tín đồ các tôn giáo... vào cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ. Với cương lĩnh đúng đắn, chương trình hành động thiết thực, hình thức, phương pháp tập hợp lực lượng, tổ chức đấu tranh phong phú, uyển chuyển, Mặt trận đã tập hợp được ngày càng đông đảo các tầng lớp nhân dân đoàn kết, đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước.
Chính sức mạnh đại đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng là một bảo đảm để đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng đi vào thực tiễn, làm cho nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh phát triển lên tầm cao mới. Thực tế lịch sử đã chứng minh rõ: Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cả miền Nam là một chiến trường lớn; toàn thể nhân dân miền Nam, 14 triệu đồng bào là 14 triệu chiến sĩ đoàn kết, sát cánh bên nhau, “nắm thắt lưng địch mà đánh”, nên dù ở đâu, Mỹ - nguỵ cũng không tránh khỏi sự tiến công mạnh mẽ của quân và dân ta. Các “khu căn cứ” chỉ huy, hậu cần - kỹ thuật… của quân giải phóng hiện diện ở cả đồng bằng, rừng núi và các thành phố, thị xã; các chiến sĩ cách mạng có mặt ở mọi nơi, kể cả ở những cấp cao nhất trong chính quyền Sài Gòn. Nhân dân ta dù ở thành thị hay nông thôn, đồng bằng hay miền núi đều hết lòng, hết sức ủng hộ cách mạng; động viên con em tham gia chiến đấu đánh đuổi quân xâm lược và bè lũ tay sai; tích cực tham gia xây dựng, bảo vệ các căn cứ cách mạng; đùm bọc lực lượng vũ trang nhân dân; tổ chức đào hầm bí mật nuôi giấu cán bộ, cất giấu vũ khí; cùng bộ đội vận động, thức tỉnh nguỵ quân, nguỵ quyền về với dân tộc, góp phần quyết định trực tiếp vào thắng lợi oanh liệt của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Nhằm phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất ở mỗi miền với những mục tiêu, thành phần, phương thức hoạt động khác nhau là một chủ trương đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, thể hiện sự thấm nhuần sâu sắc và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam: Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và CNXH, dân tộc và giai cấp; thấy rõ vai trò to lớn của nhân dân trong chiến tranh cách mạng, tạo được sức mạnh tổng hợp to lớn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta đi đến thắng lợi. Mặt trận dân tộc thống nhất trên cả hai miền đã thực sự tập hợp, động viên được mọi lực lượng, mọi tổ chức, mọi cá nhân có ý thức dân tộc, tinh thần yêu nước, tham gia vào cuộc chiến đấu cho mục tiêu chung là đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược, thống nhất Tổ quốc. Trên cơ sở đề ra đường lối đúng đắn, Đảng ta luôn coi việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận; không ngừng củng cố khối liên minh công nhân, nông dân, trí thức vững mạnh; thực hiện những sách lược mềm dẻo, linh hoạt nhằm tranh thủ, trung lập những lực lượng có thể tranh thủ và trung lập được; phân hoá, cô lập triệt để những lực lượng chính trị phản động, những tên đầu sỏ, ngoan cố nhất trong hàng ngũ địch... làm cho sức mạnh đại đoàn kết dân tộc tăng lên không ngừng, thực sự là sức mạnh vô địch, bảo đảm cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh hiện nay, những bài học về xây dựng, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vẫn còn nguyên giá trị. Trước những thách thức to lớn bởi những biến động của tình hình chính trị - kinh tế trong nước và thế giới, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta cần tiếp tục nêu cao truyền thống yêu nước, ý chí độc lập, tự lực, tự cường, xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh; quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; thực hiện đại đoàn kết dân tộc (cả người Việt Nam trong nước và nước ngoài), biến mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành hiện thực, để hoàn thành thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN./.
______________________
(1) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.37, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.472 và 484.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.171.
Thượng tướng Lương Cường, Bí thư Trung ương Đảng,
Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam
Theo Tạp chí Lý luận chính trị
Thanh Huống (s/t)