Hơn nửa thế kỷ sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đi xa, những trăn trở, tâm huyết, chỉ dẫn của Người về “việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng” và “phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” trong bản Di chúc đã được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thấm nhuần và thực hiện nghiêm túc nhằm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Bác Hồ làm việc trong vườn hoa Phủ Chủ tịch (Ảnh tư liệu)
1. Thường xuyên tự đổi mới và chỉnh đốn để Đảng xứng đáng với vai trò tiền phong
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói, Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức đoàn kết, thống nhất của những người con ưu tú của giai cấp và dân tộc, song Đảng cũng là một thực thể trong xã hội, cũng là những con người với tất cả điểm ưu và nhược, nên không phải lúc nào và bao giờ cũng giữ đúng và giữ được vai trò tiền phong. Hơn nữa, trong tiến trình vận động và phát triển, một dân tộc, một Đảng và mỗi con người ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn và quy tụ được quần chúng, song không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ngợi ca, nếu suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Vì thế, bình sinh Người luôn chú trọng công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, không ngừng nâng cao bản lĩnh, trí tuệ và sức chiến đấu của Đảng, của đội ngũ cán bộ, đảng viên trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc xây dựng một chính Đảng Mácxít Lêninnít chân chính, để Đảng trở thành và giữ vững vị trí là Đảng duy nhất lãnh đạo sự nghiệp cách mạng.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng chỉ có thể là một tổ chức chắc chắn, vững mạnh, luôn là đội tiên phong của giai cấp và dân tộc; chỉ giành và giữ vững vai trò độc quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam khi “chủ nghĩa của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, mỗi đảng viên đều phải nghiên cứu… Tư tưởng của Đảng là tư tưởng của giai cấp công nhân, nó đấu tranh cho lợi ích của toàn dân. Vì vậy, trong Đảng không thể có những tư tưởng, lập trường và tác phong trái với tư tưởng, lập trường và tác phong của giai cấp công nhân… Đảng có kỷ luật rất nghiêm khắc, tất cả đảng viên đều phải tuân theo. Tư tưởng, chính trị và tổ chức của Đảng đều phải thống nhất. Trong Đảng không thể có những phần tử lạc hậu và đầu cơ”[1]; đồng thời, phải thường xuyên, liên tục tự đổi mới và chỉnh đốn.
Cùng với đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng chỉ có thể hoàn thành trọng trách vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân khi “kiên quyết phục tùng sự lãnh đạo tập trung của Đảng. Trong Đảng không thể có những phần tử hèn nhát lung lay”[2]; đồng thời, nỗ lực “toàn tâm toàn lực phụng sự lợi ích của nhân dân, phải làm gương mẫu trong mọi công tác”[3]. Đó là trách nhiệm kép, vừa vinh dự vừa khó khăn, mà muốn xứng đáng, Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc xây dựng Đảng và thường xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng, trau dồi bản lĩnh chính trị.
Và cũng vì thế, theo Người, trong bất cứ thời điểm nào, Đảng cũng phải “tổ chức theo nguyên tắc dân chủ tập trung. Nghĩa là: có Đảng chương thống nhất, kỷ luật thống nhất, cơ quan lãnh đạo thống nhất. Cá nhân phải phục tùng đoàn thể, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương”[4]. Đây là nguyên tắc rường cột, quan trọng nhất để xây dựng Đảng, nhằm phát huy quyền làm chủ của đảng viên, tạo nên sức mạnh tổng hợp của tổ chức, bảo đảm cho quá trình thực hiện dân chủ được đúng hướng; đảm bảo cho kỷ luật của Đảng được thực thi nghiêm túc; và khi đó, kỷ luật chính là phương tiện để bảo vệ dân chủ, bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi thành viên trong tổ chức.
Người dặn “trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi” trong Di chúc là để không chỉ phát huy quyền làm chủ của đảng viên trong tất cả các hoạt động của Đảng, để mọi đảng viên được bày tỏ ý kiến của mình, mà còn góp phần phòng, chống các biểu hiện chuyên quyền, độc đoán, hách dịch, chụp mũ, trù dập và những biểu hiện dân chủ quá trớn, những hiện tượng vì “sợ” mất dân chủ mà theo đuôi quần chúng trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo thực tiễn.
Đồng thời, Đảng cũng luôn phải thực thi nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Ý nghĩa của tập thể lãnh đạo rất giản đơn, chân lý của nó rất rõ rệt. Tục ngữ có câu: “Khôn bầy hơn khôn độc” là ý nghĩ đó?”[5], vì một người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng không thể xem xét và giải quyết tốt tất cả mọi mặt của một vấn đề. Đồng thời, “nếu không có cá nhân phụ trách thì sẽ sinh cái tệ người này ủy cho người kia, người kia ủy cho người nọ, kết quả là không ai thi hành. Như thế thì việc gì cũng không xong”[6]. Cho nên, hai vế của nguyên tắc này phải luôn đi đôi với nhau, nhằm khắc phục những biểu hiện độc đoán, chuyên quyền của người đứng đầu và những biểu hiện dựa dẫm, ỷ lại tập thể, không quyết đoán, không dám chịu trách nhiệm trước những quyết định quan trọng của những cán bộ thiếu bản lĩnh, thiếu năng lực lãnh đạo,v.v..
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận trong hệ thống chính trị nhưng là lực lượng lãnh đạo, là linh hồn của khối đại đoàn kết toàn dân, nên trên tinh thần tuyệt đối không thỏa hiệp với những xu hướng bè phái, coi sự chia rẽ là tội ác lớn nhất đối với Đảng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Đoàn kết là là một truyền thống quý báu và “đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”[7]. Cũng bởi “đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta”, được coi là nguyên tắc cơ bản trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; là bảo đảm đầu tiên và thường xuyên cho sự vững mạnh và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng, tạo nên sức mạnh thống nhất trong ý chí và hành động để chiến thắng kẻ thù xâm lược, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, nên Người căn dặn, “các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”[8]. Theo đó, mọi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên củng cố khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng trên cơ sở đường lối, chủ trương và những nguyên tắc sinh hoạt Đảng; được thể hiện trong nhận thức và hành động, trong mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, nhất quán giữa lời nói và việc làm; coi đó là cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Một Đảng cách mạng chân chính, muốn xứng đáng với vị thế tiền phong, thì phải “thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”[9]. Tự phê bình và phê bình là cuộc đấu tranh giữa giữa cái tốt và cái xấu, giữa cái đúng và cái sai trong bản thân mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức Đảng, để giúp nhau sửa chữa khuyết điểm và tiến bộ, để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn, “cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ”, nên khi tiến hành phải kiên quyết, ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt và phải được thực hiện trên tình đồng chí, chân thành. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi tự phê bình và phê bình là thang thuốc hay nhất, cần phải được tiến hành thường xuyên, nghiêm túc trên tinh thần dân chủ, công khai, bình đẳng trong sinh hoạt Đảng; theo phương châm cấp trên và cán bộ lãnh đạo phải tự phê bình nghiêm túc, phải chân thành tiếp thu ý kiến phê bình của đồng chí mình và cấp dưới, đồng thời phải động viên cấp dưới và quần chúng phê bình tổ chức đảng và đảng viên chân thành, triệt để… Như thế, sẽ góp phần phát huy vai trò, khả năng sáng tạo, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng ta đại biểu cho lợi ích chung của giai cấp công nhân, của toàn thể nhân dân lao động, chứ không mưu cầu lợi ích riêng của một nhóm người nào, của cá nhân nào”[10]. Sự thống nhất lợi ích giữa Đảng với nhân dân chính là ở vị thế Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của dân. Tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân là một yêu cầu tất yếu, là nhu cầu tự thân của Đảng và một nguyên tắc để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Cho nên, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải nỗ lực phấn đấu để xứng đáng là “công bộc” của nhân dân trên tinh thần: Luôn đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết; liên hệ chặt chẽ với nhân dân; việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ; sẵn sàng học hỏi nhân dân và “sẵn lòng cầu tiến bộ, sẵn chí phụng sự nhân dân”, để nhân dân tin tưởng, yêu mến và gắn bó.
Đặc biệt, không chỉ khẳng định vai trò nền tảng, ý nghĩa quyết định của đạo đức cách mạng, coi đạo đức là cái gốc của người cách mạng, là cơ sở nền tảng của một đảng cầm quyền, Người còn luôn quan tâm việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và tự mình là một mẫu mực của tấm gương đạo đức cách mạng. Theo Người, thấm nhuần đạo đức cách mạng, mỗi cán bộ, đảng viên sẽ giữ vững kỷ luật của Đảng; thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng, không ngừng phấn đấu và đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên, lên trước lợi ích cá nhân mình, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, v.v.. Và cũng vì thế, trong Di chúc, Người nhấn mạnh: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư để Đảng thật trong sạch, xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”, để mỗi người tự rèn mình, phòng và chống những thói hư tật xấu trong mình, xứng đáng với vai trò tiền phong.
2. Tiếp tục xây dựng Đảng theo di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Quán triệt những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác xây dựng Đảng nói chung, trong Di chúc nói riêng, hơn 92 năm qua, xây dựng và chỉnh đốn Đảng luôn được xác định là nhiệm vụ quan trọng vừa thường xuyên, vừa cấp bách và lâu dài của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân. Đó không chỉ là nhiệm vụ trọng yếu của tất cả các cấp ủy Đảng và cả hệ thống chính trị mà còn là trách nhiệm của đội ngũ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu và toàn thể cán bộ, đảng viên.
Trong mọi thời điểm, nhất là ở vào những thời khắc có tính bước ngoặt, công tác xây dựng Đảng được đẩy mạnh, được tổng kết qua các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc và được triển khai sâu rộng theo các Nghị quyết chuyên đề về công tác xây dựng Đảng như: Nghị quyết trung ương 6 (lần 2) khóa VIII “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách về công tác xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, Kết luận số 21-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" gắn với Chỉ thị số 23-CT/TW của Ban Bí thư về “Đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới”; Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị về "Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", và Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" và Kết luận số 01-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh"...
Thông qua quá trình tự đổi mới và chỉnh đốn đó, Đảng được củng cố, bảo vệ và phát triển, đáp ứng yêu cầu và tình hình nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Đồng thời, Đảng lãnh đạo nhân dân thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ chính trị, giữ vững ổn định chính trị quốc gia; phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước; hoàn thiện các chính sách và cơ chế quản lý kinh tế, an sinh xã hội; kiện toàn các tổ chức trong hệ thống chính trị,v.v.. với những bước đi và phương pháp thích hợp. Trong tiến trình đó, Đảng đã khẳng định được vị thế là lực lượng lãnh đạo Nhà nước, xã hội và đó chính là kết quả sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; trong đó, có sự đóng góp quan trọng của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm cần phải khắc phục. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp, thậm chí có nơi mất sức chiến đấu. Trong đó, nhiều cán bộ, đảng viên và người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; nhất là “một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"”[11]. Trong khi đó, “công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng chuyển biến chưa đều”, chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái. Công tác phòng và đấu tranh chống tham nhũng ở một số bộ, ngành, địa phương “chưa có chuyển biến rõ rệt; công tác phòng ngừa tham nhũng ở một số nơi còn hình thức”… Thực trạng đó không chỉ làm mất uy tín, danh dự của Đảng, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng và tính tiền phong, gương mẫu của người đảng viên, mà còn làm mục ruỗng bộ máy Đảng, Nhà nước từ bên trong, làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào Đảng, vào các cơ quan công quyền. Nghiêm trọng hơn là những hạn chế, khuyết điểm đã trở thành nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ…
Vì thế, để những trăn trở, tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc được thực hiện sinh động trong thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, trong thời gian tới, cấp ủy các cấp cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức của cấp ủy các cấp, các ban, ngành chức năng trong hệ thống chính trị và mỗi cán bộ, đảng viên về tầm quan trọng của công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng; chú trọng, tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Trong đó, quyết liệt gắn thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, Kết luận số 21-KL/TW về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII và Kết luận số 01-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW về "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" với các quy định 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm, Quy định về nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là Quy định 08-QĐi/TW của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương… Coi đó là giải pháp đột phá, là điều kiện tiên quyết để làm trong sạch Đảng và hệ thống chính trị, nâng cao sức chiến đấu của Đảng, phòng và chống nguy cơ "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.
Hai là, tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, đấu tranh bảo vệ, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh gắn liền với việc kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đường lối đổi mới cho cán bộ, đảng viên, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành. Đồng thời, thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng, Điều lệ Đảng, kỷ luật Đảng để nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả. Bảo vệ và giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng, giữ vững bản lĩnh chính trị của Đảng, của tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên gắn với đẩy mạnh phòng, đấu tranh chống tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực khác. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế phòng ngừa sự tha hóa quyền lực, kiểm soát quyền lực, ngăn chặn quan hệ “lợi ích nhóm” để cán bộ, đảng viên không dám, không thể, không cần, không muốn tham nhũng.
Ba là, đẩy mạnh sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan chức năng, báo chí, truyền thông để đổi mới công tác tuyên truyền; làm phong phú các chuyên trang, chuyên mục, các giải thưởng báo chí, các tác phẩm văn học - nghệ thuật liên quan đến công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng gắn với đẩy mạnh học và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong cả hệ thống chính trị. Chú trọng việc nhân rộng các gương điển hình trong cán bộ, đảng viên, trong nhân dân về tham gia xây dựng Đảng, về học và làm theo Bác, để những hạt giống đỏ được lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng. Đồng thời, mỗi cấp ủy, mỗi tổ chức cơ sở Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên đều cần phải chủ động, kiên quyết và linh hoạt trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, phản động, góp phần làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, thiết thực xây dựng và chỉnh đốn Đảng.
Bốn là, mỗi cán bộ, đảng viên phải nâng cao đạo đức cách mạng, nỗ lực phòng, chống và đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân; phòng và chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" và các biểu hiện tiêu cực khác trên tinh thần tự soi, tự sửa và tu dưỡng suốt đời. Đặc biệt, phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu, thống nhất giữa nói và làm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu trên mọi lĩnh vực, nhất là trong đấu tranh phòng và chống tham nhũng, lợi ích nhóm, trong chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; khắc phục tình trạng dân chủ, tự phê bình và phê bình, kiểm tra và giám sát hình thức... để kịp thời phát hiện và ngăn chặn sự suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong cán bộ, đảng viên. Đồng thời, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những con sâu mọt tham ô, tham nhũng, v.v.. gây thất thoát tiền bạc và tài sản của nhân dân, gây bức xúc dư luận xã hội để làm trong sạch Đảng và hệ thống chính trị.
Năm là, phát huy hơn nữa vai trò của nhân dân trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng nói chung, trong giám sát cán bộ, đảng viên nói riêng, để “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát, dân thụ hưởng” không chỉ là nằm trong nghị quyết, trên khẩu hiệu mà là hiện thực sinh động trong thực tiễn. Các tổ chức cơ sở Đảng và cán bộ, đảng viên phải khắc phục tình trạng quan liêu, thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân. Đi liền cùng đó là phải tăng cường kiểm tra, đôn đốc, nắm chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị, địa bàn cơ sở; lắng nghe ý kiến đóng góp của quần chúng để không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ. Đồng thời, tạo điều kiện để nhân dân và các tổ chức quần chúng thực hiện tốt hơn quyền dân chủ của mình, tích cực tham gia xây dựng các tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh./.
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.8, tr.275- 276
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.8, tr.276
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.8, tr.275
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.8, tr.275
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.619
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.619
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.9, tr.177
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.611
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.611
[10]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.11, tr.607
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.92
Văn Thị Thanh Mai - TS. Trần Thị Bình
Theo Hochiminh.vn
Thanh Huyền (st)