Quan hệ con người, quan hệ xã hội vốn có mâu thuẫn về lợi ích, khác biệt về nhu cầu, về nhận thức và hành vi, về tâm lý - ý thức, về lựa chọn giá trị. Đặt con người - cá nhân cũng như con người - cộng đồng trong cấu trúc xã hội, những khác biệt này còn biểu hiện sự chênh lệch về học vấn, kinh nghiệm sống và nghề nghiệp, về lứa tuổi, thế hệ và những khác biệt về giới tính, tâm lý, lối sống, tức là khác biệt về lịch sử và văn hóa.
Bác Hồ cùng các chiến sĩ tại mặt trận Tây Bắc (Tranh của họa sĩ Đức Dụ) _Nguồn: laodong.vn
Con người là chủ thể sáng tạo văn hóa, đồng thời là chủ nhân của cảm thụ và tiêu dùng các giá trị, các sản phẩm văn hóa do chính mình sáng tạo ra. Văn hóa tồn tại dưới hai dạng: vật thể (vật chất) và phi vật thể (tinh thần). Cá nhân và cộng đồng thông qua hoạt động, nhất là hoạt động lao động và sản xuất văn hóa, kết tinh thành các giá trị, vì mục đích sinh tồn và phát triển của mình. Diện mạo, bản sắc, cốt cách của một dân tộc được phản ánh bởi văn hóa. Đó là nhân tính, là trình độ người trong phát triển. Các giá trị văn hóa thể hiện năng lực và trình độ sáng tạo của con người và xã hội qua mỗi thời đại lịch sử. Hệ giá trị phổ quát toàn nhân loại của văn hóa là Chân - Thiện - Mỹ, thể hiện qua các hình thái: Khoa học, đạo đức và nghệ thuật. Phát triển con người từ cá nhân tới cộng đồng đều là sự nỗ lực để đạt tới các giá trị đó.
Từng người đến toàn thể mọi người trong cộng đồng đều có liên hệ mật thiết và ràng buộc lẫn nhau. Các cá nhân liên hợp lại thành tập thể và cộng đồng xã hội. Cộng đồng xã hội bao chứa và gắn kết mọi cá nhân, mọi người lại với nhau. Trong xã hội truyền thống, mô hình Nhà - Làng - Nước rất điển hình. Nhà gắn với các thành viên, tức là gia đình, là nền tảng, là tế bào của thực thể xã hội và văn hóa. Làng là tập hợp các gia đình thành cộng đồng dựa trên hai quan hệ trụ cột là: láng giềng và huyết tộc. Nhiều làng hợp lại thành nước. Văn hóa làng xã là đặc trưng của văn hóa truyền thống, của dân tộc, đặc trưng của xã hội nông nghiệp kinh tế nông thôn và tâm lý, lối sống nông dân là nét tâm lý phổ biến trong cư dân một nước nông nghiệp. Ở trình độ phát triển này, tính cộng đồng là nổi bật và vượt trội, vai trò của cá thể, cá nhân phụ thuộc gần như tuyệt đối vào cộng đồng. Do đó, phát triển cá nhân thường bị lu mờ, bị lấp khuất sau cộng đồng, thậm chí “hòa tan” vào cộng đồng. “Cái tôi” nhân danh “cái ta”, “cái chúng ta”.
Những nét đặc thù trong mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, phát triển cá nhân và phát triển cộng đồng, chiều cạnh cá nhân, chiều cạnh cộng đồng trong văn hóa Việt Nam truyền thống này biến đổi trong văn hóa Việt Nam hiện đại và đương đại, nhất là trong kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế cần được nhận biết rõ. Lý giải hiện tượng này, Chủ tịch Hồ Chí Minh trên phương diện tư tưởng đã nhận biết sâu sắc và tinh tế. Người thực sự thấu hiểu đất nước - con người - dân tộc Việt Nam, thực sự có những quan điểm cách tân, đổi mới, thấm nhuần khoa học mà cũng thấm đẫm nhân văn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân nhưng không hề xem nhẹ cá nhân, càng không phủ nhận vai trò của cá nhân, không đồng nhất giản đơn cá nhân với chủ nghĩa cá nhân. Người luôn phòng ngừa bệnh giáo điều và khuynh hướng cực đoan. Nếu chống chủ nghĩa cá nhân một cách giáo điều, cực đoan sẽ phạm sai lầm chống cá nhân trong tư cách con người - chủ thể mang nhân cách. Sai lầm trong nhận thức sẽ dẫn tới sai lầm trong hành động, rất tai hại trong hoạt động lãnh đạo, quản lý, trong chính sách và ứng xử với con người.
Chú trọng tới cá nhân, Người thấy rõ phải làm sao cho tất cả lực lượng ở mỗi người phải được phát huy để phát huy tất cả mọi lực lượng ở tất cả mọi người dân (toàn dân, cộng đồng). Cá tính sáng tạo, tài năng, nhân cách của mỗi cá nhân có quan hệ trực tiếp tới phát triển. Người chỉ rõ nguyên tắc hay phương châm ứng xử: “Phê bình việc chứ không phê bình người”, không xúc phạm nhân cách, “phải trọng nhân cách của người ta”. Tôn trọng đi liền với tin cậy, nhất là đối với nhân dân, “phải kính trọng, lễ phép với nhân dân”, lực lượng của dân rất to, sáng kiến của dân rất lớn, rất nhiều, dựa vào dân, tập hợp được dân thành lực lượng, thành phong trào thì khó mấy cũng giải quyết được. Xa dân thì dù có tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được dân.
Người chủ trương phê bình phải khéo, khen chê phải đúng và khéo, dân vận phải khéo, kể cả binh vận (vận động binh lính địch, đối xử nhân đạo với tù binh, hàng binh). Người có một năng lực đặc biệt trong thuyết phục, thu phục nhân tâm, chinh phục lòng người(1). Nhờ đó, Người đã thành công trong phép dùng người.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (năm 1947), với bút danh X.Y.Z, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phê bình cán bộ, đảng viên mắc những khuyết điểm, sai lầm rất to và Người yêu cầu phải sửa chữa thật nghiêm túc. Một trong những khuyết điểm, sai lầm ấy là “bệnh hẹp hòi”. Đó là bệnh về dùng người, chỉ dùng những người thân quen, thuộc “cánh hẩu” với nhau, lại thích dùng những kẻ xu nịnh, tâng bốc nhau, tài kém, đức kém cũng dùng, trong khi những người có đức, có tài, cương trực thì lại xa lánh, ghét bỏ. Đó là bệnh về quan hệ, sẽ rất có hại cho sự nghiệp chung, cản trở sự đoàn kết trong Đảng, trong dân.
Với sự bao dung, rộng mở, Người nêu cao đức công tâm, công bình chính trực để sẵn lòng tin cậy, giao phó công việc, ủy thác trọng trách cho những người xứng đáng, thực đức, thực tài. Để phát triển cá nhân từng người, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn cổ vũ, khích lệ ưu điểm, chỉ dẫn ân cần giúp cho cán bộ tự mình nhận ra thiếu sót, khuyết điểm mà sửa chữa kịp thời. Người đòi hỏi cán bộ lãnh đạo phải gương mẫu, phải nêu gương, làm gương cho mọi người noi theo.
Chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dùng người cho đúng thực sự tỏ rõ một bản lĩnh. Trong tác phẩm “Đời sống mới” (năm 1947) với bút danh Tân Sinh, Người nêu rõ: “Mình hơn người thì chớ kiêu căng/Người hơn mình, thì chớ nịnh hót/Thấy của người thì chớ tham lam/Đối của mình thì chớ bủn xỉn”(2).
Bàn về chữ “chính” trong “cần, kiệm, liêm, chính”, Người chỉ rõ: “Mình là người làm việc công, phải có công tâm, công đức. Chớ đem của công dùng vào việc tư. Chớ đem người tư làm việc công. Việc gì cũng phải công bình, chính trực, không nên vì tư ân, tư huệ hoặc tư thù, tư oán. Mình có quyền dùng người thì phải dùng những người có tài năng, làm được việc. Chớ vì bà con bầu bạn, mà kéo vào chức no, chức kia. Chớ vì sợ mất địa vị mà dìm những kẻ có tài năng hơn mình. Phải trung thành với Chính phủ, với đồng bào. Chớ lên mặt làm quan cách mệnh”(3).
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với nhân dân tỉnh Quảng Nam _Ảnh: TTXVN
Càng tôn trọng và tin cậy cá nhân bao nhiêu, Chủ tịch Hồ Chí Minh càng sáng suốt và kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân bấy nhiêu. Các căn bệnh mà cán bộ hay mắc phải, Người đã phê phán nghiêm khắc và chỉ rõ căn nguyên sâu xa là do chủ nghĩa cá nhân mà ra. Đó là “bệnh gốc, bệnh mẹ”, sinh ra đủ mọi thứ bệnh tật con khác, không đấu tranh chống lại một cách kiên quyết, không “tẩy sạch” được nó, sẽ dẫn đến suy thoái, hư hỏng. Chủ nghĩa cá nhân như một thứ vi trùng rất tai hại làm suy yếu tổ chức, đoàn thể, cán bộ, nhân viên. Nó xa lạ, đối lập với đạo đức cách mạng, chỉ vì sa vào chủ nghĩa cá nhân mà có thể mắc vào tội lỗi, bất liêm, bất chính, làm xói mòn niềm tin của nhân dân. “Mỗi chứng bệnh là một kẻ địch. Mỗi kẻ địch bên trong là một bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra. Vì vậy, ta phải ra sức đề phòng những kẻ địch đó, phải chữa hết những chứng bệnh đó”(4).
Chủ tịch Hồ Chí Minh cảnh báo rằng: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”(5). Người ví: Tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân ví như lúa với cỏ dại. Lúa phải chăm bón rất khó nhọc mới tốt được. Còn cỏ dại không cần chăm sóc cũng mọc lu bù. Tư tưởng cộng sản phải rèn luyện gian khổ mới có được. Còn tư tưởng cá nhân thì cũng như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ... Chủ nghĩa cá nhân không phải chống lại một lần mà hết được(6). Người chỉ ra trăm nghìn biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân: Quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí, tham muốn danh vọng, địa vị. Trong công việc thì chậm chạp, làm cho qua, ham chuộng hình thức. Nếu đảng viên mà mang chủ nghĩa cá nhân thì họ hay “kể công” với Đảng. Có ít nhiều thành tích thì họ muốn Đảng “cảm ơn” họ. Họ đòi ưu đãi, đòi danh dự, địa vị. Họ đòi hưởng thụ. Nếu không thỏa mãn yêu cầu thì họ oán trách Đảng, cho rằng họ “không có tiền đồ”, họ “bị hy sinh”. Rồi dần dần họ xa rời Đảng, thậm chí phá hoại chính sách và kỷ luật của Đảng. Do đó, “chủ nghĩa cá nhân là thứ rất gian giảo, xảo quyệt”(7). Người cách mạng phải tiêu diệt nó.
Như vậy, chống chủ nghĩa cá nhân là chống những cái xấu, cái ác, cái thấp kém, tầm thường, tham lam, ích kỷ, vụ lợi, kèn cựa, xa lạ, đối lập với đạo đức cách mạng. Chống chủ nghĩa cá nhân là chống một nhân sinh quan bắt nguồn từ tư hữu, tàn dư quá khứ phong kiến và tư sản còn dai dẳng trong quan niệm và lối sống của mỗi người, chỉ đòi hỏi “mọi người vì mình”, xa lạ với nhân sinh quan cách mạng “mình vì mọi người”, chống một chủ nghĩa vị kỷ để biết sống, biết hành động “vị tha” (vì người khác, vì tập thể, vì cộng đồng xã hội). Đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là sức mạnh đạo đức để con người lựa chọn định hướng giá trị “vô ngã vị tha”, biết quên mình, hy sinh cho lý tưởng cao quý, rèn bản lĩnh “không màng danh lợi”, “đứng ngoài vòng danh lợi” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hành, suốt đời vì dân, vì nước, tự nguyện dâng hiến cả một đời cho hạnh phúc của nhân dân.
Người cũng chỉ dẫn, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân là đấu tranh với những gì không xứng đáng của chính mình, ở ngay trong con người mình, vì vậy, sẽ có không ít sự đau đớn ở trong lòng. Song, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân là để mỗi con người trở nên đúng hơn, tốt hơn, đẹp hơn theo hệ giá trị Chân - Thiện - Mỹ, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân xuất phát từ yêu cầu phục vụ cộng đồng xã hội “Tổ quốc trên hết, dân tộc trên hết”, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, “vì nhân dân quên mình”, “vì nhân dân hy sinh”, thanh lọc khỏi mình những gì xấu xa hư hỏng, vượt qua những nguy cơ rơi vào tha hóa, suy đồi, không làm chủ được mình, tự mình trở thành “tù binh” của chủ nghĩa cá nhân. Cá nhân cũng như tập thể, mỗi đảng viên cũng như mỗi tổ chức đảng và toàn Đảng phải thường trực chống chủ nghĩa cá nhân, xây dựng ý thức tập thể. Chính vì bảo vệ danh dự, phẩm giá cá nhân, chăm lo cho sự phát triển chân chính, lành mạnh của cá nhân mà suốt đời phải chống chủ nghĩa cá nhân. Đó là giá trị và ý nghĩa nhân văn cao cả trong tư tưởng, hành động, lối sống, nhân cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người giải thích tường tận rằng, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân”. Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình mình. Nếu những lợi ích cá nhân đó không trái với lợi ích tập thể thì không phải là xấu. Nếu lợi ích cá nhân mâu thuẫn với lợi ích tập thể thì đạo đức cách mạng đòi hỏi lợi ích của từng cá nhân phải phục tùng lợi ích của tập thể.
Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, chống chủ nghĩa cá nhân để xây dựng và phát triển cá nhân, hoàn thiện đạo đức, nhân cách của mỗi cá nhân và cao hơn còn vì mục đích xã hội, thực hiện sự phát triển hài hòa giữa cá nhân và xã hội. Chăm lo cho sự phát triển hài hòa đó, Người quan tâm tới tất cả mọi thành viên trong cộng đồng, Người yêu cầu không bỏ sót một ai, không phí phạm một tài năng nào của con người, dù nhỏ nhất. Bao trùm tất cả là thực hiện quyền, lợi ích của dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Những luận đề của Người về dân chủ, lấy đó làm cơ sở khoa học của công tác dân vận, tỏ rõ sâu xa vai trò to lớn của nhân dân: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân./Bao nhiêu quyền hạn đều của dân./Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân./Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân./Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra./Đoàn thể, từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên./Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(8).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi công chức, viên chức đều phải nêu cao tinh thần trọng dân và trọng pháp, đều phải là công bộc tận tụy, đầy tớ trung thành của nhân dân. Phải hết sức làm những điều có lợi cho dân. Phải hết sức tránh những gì có hại tới dân.
Phải chăm lo giải phóng sức dân, phát triển sức dân, bồi dưỡng sức dân đi liền với tiết kiệm sức dân. Càng thấy rõ, muốn đạt mục đích đó, mỗi người vì nhân dân và dân tộc mình mà phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, tẩy sạch quan liêu, lãng phí, tham ô. Trong chủ trương và chính sách hướng tới mục đích vì dân thì phải “Làm cho người nghèo thì đủ ăn./Người đủ ăn thì khá giàu/Người khá giàu thì giàu thêm. Người nào cũng biết chữ/Người nào cũng biết đoàn kết, yêu nước”(9). Đó là kinh tế và văn hóa để xây dựng chủ nghĩa xã hội, là nền tảng của xây dựng chế độ mới mang tính nhân dân sâu sắc, định hướng vào sự phát triển cá nhân và cộng đồng. Có một chỉ dẫn hết sức giản dị mà sâu sắc, nổi bật tinh thần trách nhiệm của Đảng và Nhà nước vì một chủ nghĩa nhân đạo và nhân văn cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tất cả những việc Đảng và Chính phủ đề ra đều nhằm cải thiện đời sống cho nhân dân. Làm gì mà không nhằm mục đích ấy là không đúng”(10).
Để thực hiện sự phát triển hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, có hàng loạt những nhiệm vụ đặt ra và cần giải quyết. Nổi bật là những nhiệm vụ có tính giải pháp sau:
Thứ nhất, cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, làm sáng tỏ lý luận phát triển cá nhân (cá nhân luận) và lý luận, phương pháp chống chủ nghĩa cá nhân theo tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và văn hóa. Đây là vấn đề khoa học nghiêm túc có quan hệ mật thiết với nâng cao nhận thức lý luận về con người, nhân cách và văn hóa, nâng cao năng lực tư duy lý luận theo tinh thần đổi mới sáng tạo, củng cố vững chắc cơ sở khoa học xây dựng hệ giá trị con người và văn hóa Việt Nam trên nền tảng hệ giá trị quốc gia mà Đảng ta đã xác định trong Văn kiện Đại hội XIII.
Phát triển cá nhân vừa là kết quả của đầu tư xã hội (nhất là tạo việc làm, đời sống và cơ hội tiếp thu giáo dục, văn hóa cho con người), vừa là nỗ lực tự giác, bền bỉ của chính con người (với tư cách chủ thể tự giáo dục chính mình). Phát triển cá nhân vừa như sự chuẩn bị và tham gia vào sự phát triển xã hội (nghĩa vụ, bổn phận, trách nhiệm, lương tâm, danh dự, trí tuệ, năng lực sáng tạo và phẩm giá nhân cách), vừa bị chi phối, chịu tác động từ định hướng phát triển xã hội, đặc biệt quan trọng là định hướng từ thể chế, từ đạo đức, giáo dục và văn hóa. Vấn đề đặt ra là, sao cho đạt được sự phát triển phức hợp, thống nhất, hài hòa, kết hợp và thúc đẩy lẫn nhau giữa hiện thực và triển vọng, giữa cá nhân và cộng đồng (gia đình, tập thể, nhà trường, xã hội, tổ chức và đoàn thể...).
Ngày nay, với tinh thần tiếp tục đổi mới sáng tạo, muốn thực hiện được các đột phá trong phát triển, chúng ta cần phải đầu tư nghiên cứu lý luận phát triển cá nhân, lý luận và phương pháp chống chủ nghĩa cá nhân theo tư tưởng Hồ Chí Minh, về con người và văn hóa. Phải đặc biệt đi sâu nghiên cứu con người và nhân cách Việt Nam - từ lý luận chung về cá nhân và nhân cách đến những đặc thù đối tượng, trong đó có thế hệ trẻ, trí thức khoa học, văn nghệ sĩ sáng tạo,... tạo cơ hội và điều kiện cho tài năng, nhất là tài năng trẻ phát lộ, nuôi dưỡng khát vọng cống hiến, tạo môi trường dân chủ và văn hóa dân chủ để nuôi dưỡng và phát triển tài năng thuộc nhiều thế hệ, nghề nghiệp khác nhau. Thấm nhuần quan điểm, nguyên tắc và phương pháp Hồ Chí Minh, ra sức vun trồng cho sự phát triển sáng tạo cá nhân, đồng thời kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, “đẩy lùi”, “tẩy sạch”, “quét sạch” chủ nghĩa cá nhân, “xây” đi liền với “chống”, phát huy tác dụng những tấm gương bình dị và cao quý, nêu cao truyền thống đạo đức, đạo lý nhân nghĩa Việt Nam, nâng cao trí tuệ, bản lĩnh Việt Nam trong đổi mới, hội nhập để phát triển.
Với cán bộ, đảng viên, nhất là các cán bộ lãnh đạo chủ chốt phải đặc biệt chú trọng tới trách nhiệm cá nhân, bản lĩnh cá nhân, phẩm giá, danh dự cá nhân để hết mình trong sáng tạo, cống hiến cho phát triển xã hội và có đủ dũng khí, đủ ý chí tự bảo vệ sự trong sạch của mình trước mọi cám dỗ của tiền bạc, quyền hành, danh vọng bất minh, bất chính, bất liêm, giữ trọn tâm nguyện, thề nguyện tận trung với nước, tận hiến với dân theo tấm gương của Bác Hồ.
Cán bộ, chiến sĩ Công an thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh thu hoạch lúa hè thu giúp dân
để tránh bão _Ảnh: hatinh.gov.vn
Thứ hai, đánh giá đúng những biến đổi của cá nhân và cộng đồng trong điều kiện hiện nay, cả mặt tích cực và tiêu cực để tìm ra và áp dụng có hiệu quả những giải pháp phù hợp trong điều kiện mới. Đây là một tình huống thực tiễn hết sức phức tạp liên quan đến sự cần thiết phải đổi mới thể chế, chính sách và cơ chế từ giáo dục đến quản lý, xây dựng môi trường văn hóa và đời sống văn hóa trong cộng đồng xã hội. Những biến đổi của cá nhân và cộng đồng cần nhận biết qua diện mạo tâm lý, tính cách, đời sống, văn hóa giao tiếp ứng xử giữa người với người, giữa cá nhân, tập thể (các nhóm xã hội nhỏ và lớn) với tổ chức, thiết chế bộ máy, thể chế vận hành; với sự biến đổi qua các mối quan hệ xã hội, mức độ thẩm thấu của văn hóa lẫn phản văn hóa vào trong các quan hệ, các lĩnh vực của đời sống; “tính lưỡng diện” giữa văn hóa và phản văn hóa trong các quan hệ cá nhân và cộng đồng. Từ đó, xây dựng luồng dư luận xã hội tích cực, quan tâm cổ vũ, ủng hộ và bảo vệ cái đúng, cái tốt, lẽ phải và sự công bằng, phê phán và lên án cái ác, cái xấu, cái đê tiện, thấp hèn, ngăn chặn suy thoái đạo đức, biến dạng lệch lạc nhân cách cá nhân và nhân cách xã hội.
Trong hơn 35 năm đổi mới, tư tưởng giải phóng sức sản xuất, giải phóng sức sáng tạo được khẳng định và cổ vũ, trong bối cảnh kinh tế thị trường, lợi ích cá nhân được coi trọng, lợi ích vật chất kinh tế được đề cao, xã hội đã hình thành bầu không khí năng động, sáng tạo, tận dụng cơ hội phát triển, con người đối mặt và thích ứng với thách thức để vượt qua. Tâm lý biến đổi nhanh chóng, nhất là tầng lớp nông dân đã chuyển từ tư duy hiện vật sang tư duy giá trị ngay trên mảnh vườn, thửa ruộng của mình. Nhờ mở cửa, hội nhập với sự hỗ trợ của thông tin, khoa học - công nghệ mà cá nhân và cộng đồng mở rộng tầm nhìn, thay đổi cách nhìn, cách làm, ý thức rõ về hợp tác, cạnh tranh, về thương hiệu sản phẩm, về giá trị sáng tạo... Đặc biệt, ý thức trách nhiệm với chính mình trở thành xung lực thúc đẩy trách nhiệm xã hội con người vượt qua, tính thụ động, ỷ lại, an phận thủ thường, thay vào đó con người chủ động, tìm tòi, học hỏi, áp dụng cái mới, cái tốt.
Tính ràng buộc, liên kết và phối hợp giữa các thành viên trong tập thể được phát triển và phát huy. Đó là dấu hiệu phát triển, trước hết là phát triển cá nhân để phát triển xã hội. Đó là mặt tích cực, thuận theo xu thế phát triển hiện đại, hướng vào hiệu quả chú trọng thực chất, khắc phục tính hình thức, phù phiếm, hư danh...
Cùng với mặt tích cực, cũng phải nhận ra những tiêu cực, mặt trái và những hệ lụy khi “đồng tiền lên ngôi”: đó là sự “phì đại” quá mức của chủ nghĩa cá nhân, vụ lợi, vị kỷ, lối sống thực dụng, hưởng lạc, đề cao một chiều giá trị vật chất, xem nhẹ các giá trị tinh thần, xem nhẹ đạo đức, phủ nhận truyền thống, lệch lạc chuẩn mực trong định hướng giá trị và lựa chọn giá trị; đó là những lệch lạc mới cả trong nhận thức và hành động về một thứ chủ nghĩa bản vị, cục bộ mới, địa phương chủ nghĩa, cát cứ, phân tán, sao nhãng kỷ cương, pháp chế “trên bảo dưới không nghe”, nhân danh tập thể để thực hiện lợi ích nhóm, phe nhóm và làm tổn thương tới tập thể lớn là cộng đồng xã hội. Chính những sai lệch trong biến đổi quan hệ cá nhân và cộng đồng trong nền kinh tế thị trường đó đã dẫn tới những dấu hiệu “phát triển xấu”, tức là phản phát triển: kinh tế có thể tăng trưởng, nhưng xã hội bị tổn thương mà nặng nhất là suy đồi đạo đức, tệ nạn tiêu cực hoành hành. Tham nhũng, lãng phí, tiêu cực là bằng chứng điển hình của những mặt trái và hệ lụy xã hội nói trên, chúng ta đang phải đối mặt và phải đủ sức mạnh để loại trừ nó ra khỏi đời sống để tạo dựng và bảo vệ sự phát triển lành mạnh của cá nhân và cộng đồng theo mục tiêu phát triển nhân văn: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Muốn vậy, phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại. Phải thể hiện rõ trong các chính sách phát triển kinh tế và phát triển xã hội theo nguyên lý công bằng, bình đẳng, từ công bằng trong phân phối lợi ích đến công bằng và bình đẳng trong cơ hội phát triển cho tất cả mọi thành viên trong cộng đồng xã hội. Phải điều tiết và kiểm soát phân hóa giàu - nghèo bằng hệ thống an sinh xã hội, bảo vệ tầng lớp cơ bản trong xã hội, chăm sóc các đối tượng chính sách, hỗ trợ các đối tượng thua thiệt trong phát triển, dễ bị tổn thương, khắc phục độ chênh lệch trong phát triển giữa các vùng, miền, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, pháp chế trong đẩy mạnh thực hành dân chủ, đặc biệt đẩy mạnh giáo dục đạo đức, chống chủ nghĩa cá nhân trong suốt tiến trình xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nêu cao trách nhiệm chính trị - pháp lý và đạo đức của cán bộ, đảng viên và mọi tổ chức đảng, nhất là người lãnh đạo và cơ quan lãnh đạo, tạo sự thống nhất trong Đảng và từ Đảng tới nhân dân, xã hội về quyết tâm, tín tâm và đồng tâm như Bác Hồ đã chỉ đạo.
Thứ ba, trong quản lý và quản trị xã hội, nhất là trong những điều kiện “bình thường mới” hiện nay, cần có những đổi mới về chính sách nhằm phát huy động lực con người, chấn hưng đạo đức, chấn hưng văn hóa vì hạnh phúc của con người. Quản lý và quản trị xã hội trong điều kiện không bình thường, bất thường (như xảy ra chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh,...) phức tạp và khó khăn gấp bội so với trong thời gian bình thường. Diễn biến vô cùng phức tạp của đại dịch COVID-19 vừa qua là thực tiễn cho ta những thu hoạch bổ ích về việc quản lý, quản trị xã hội. Những tổn thất to lớn về người và của do đại dịch COVID-19 gây ra càng làm cho ta thêm một lần nhận rõ tầm quan trọng của định hướng nhân văn trong phát triển.
Đảng ta đã nhấn mạnh, con người là mục tiêu, động lực và chủ thể sáng tạo của đổi mới, của phát triển. Văn hóa là nguồn lực nội sinh quan trọng, nổi bật của phát triển. Con người là giá trị hàng đầu quan trọng nhất trong giá trị văn hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, nền văn hóa mới của Việt Nam phải lấy hạnh phúc của dân tộc và người dân làm cơ sở, tiếp thu mọi cái hay, cái tốt của các nền văn hóa trên thế giới để thực sự phát triển văn hóa Việt Nam... Người nhấn mạnh, “văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Văn hóa phải có sức mạnh chống lại thói phù hoa, xa xỉ, tham nhũng. Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24-11-2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục khẳng định “văn hóa soi đường cho quốc dân đi” và đưa ra một thông điệp văn hóa trong bối cảnh mới “Văn hóa còn thì Dân tộc còn”.
Thảm họa toàn cầu của đại dịch COVID-19 là một phép thử về năng lực quản lý, quản trị xã hội trong điều kiện không bình thường của Đảng và Nhà nước ta, một phép thử việc tác động, hiệu quả của chủ trương, chính sách an sinh xã hội với nguyên tắc “tất cả vì quyền sống và hạnh phúc của nhân dân” với phương châm “không ai bị bỏ lại ở phía sau”. Trong hoạn nạn, hiểm nghèo, giữa lằn ranh mong manh của sự sống và cái chết, Đảng và Nhà nước ta đã chủ động các kịch bản phát triển, đã kịp thời chuyển hướng, từ giãn cách xã hội đến kiểm soát và thích ứng linh hoạt, an toàn với đại dịch COVID-19, duy trì cuộc sống bình yên cho nhân dân, lấy lại đà tăng trưởng kinh tế để có đủ nguồn lực phục vụ xã hội, chú trọng chính sách nhân đạo, hỗ trợ phát triển cho cá nhân và cộng đồng. Thực tế và kinh nghiệm xử lý đại dịch COVID-19 cho ta thấy sức mạnh gắn kết xã hội - cộng đồng của dân tộc ta, tinh thần trách nhiệm, đức hy sinh, phục vụ cộng đồng, chia sẻ nỗi đau trong mất mát của người dân bằng hành động của triệu triệu con người, vạn vạn tấm lòng nhân ái, vị tha của cán bộ, chiến sĩ công an, quân đội, của tất cả mọi người, nhất là đội ngũ y, bác sĩ trong cuộc chiến đấu sinh tử vượt qua cái chết, giành lấy sự sống cho mọi người, mọi nhà.
Truyền thống đạo đức, đạo nghĩa “lá lành đùm lá rách”, “thương người như thể thương thân” đoàn kết gắn bó, đồng cam cộng khổ được phát huy cao độ. Chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân văn Việt Nam, tinh thần dân tộc Việt Nam lại thêm một lần nữa được phát huy trong những tình thế hiểm nghèo, kết tinh thành giá trị, là hằng số văn hóa Việt Nam. Ý Đảng - Lòng dân - Phép nước đã gắn kết thành một khối vững chắc. Đó là động lực tổng hợp giúp Việt Nam chiến thắng. Sự phát triển cá nhân và phát triển cộng đồng, con người và văn hóa Việt Nam là sự liên kết xã hội, giúp Đảng với Nhà nước và nhân dân làm nên sự phát triển hài hòa. Sức mạnh của trí tuệ và đạo đức Việt Nam được thực hiện qua chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đã góp phần quan trọng trong công cuộc chấn hưng đạo đức, văn hóa để chấn hưng dân tộc, thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc./.
GS, TS. HOÀNG CHÍ BẢO
Chuyên gia cao cấp, nguyên Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương
Theo Tạp chí Cộng sản
Thanh Huyền (st)
--------------
(1) Xem: Đặng Xuân Kỳ: Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr. 228 - 231
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 117
(3), (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 123, 278 - 279
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 672
(6) Xem: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 222
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 602
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 232
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 81
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 310