Xác định đúng đối tác, đối tượng là vấn đề quan trọng, căn cứ chủ yếu để đề ra chính sách đối nội, đối ngoại cùng với kế sách xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc ngoại giao “thêm bạn, bớt thù” là nội dung quan trọng để xác định bạn, thù. Đây là nguyên tắc chiến lược nhằm tập hợp lực lượng rộng rãi, cô lập kẻ thù, tạo nên tương quan lực lượng có lợi cho cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp Đoàn Nghị sỹ Quốc hội Anh sang thăm Việt Nam (04-5-1957).
(Ảnh: Tư liệu).
Với mục đích tập hợp lực lượng rộng rãi, cô lập kẻ thù, tạo nên tương quan lực lượng có lợi cho cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm ra phương pháp xác định bạn, thù chính xác và sử dụng linh hoạt các phương pháp đó để thực hiện mục tiêu của cách mạng ở từng giai đoan cụ thể. Với nhãn quan chính trị sắc bén và tinh thần dân tộc cao cả, trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt các quyền dân tộc cơ bản: Độc lập, tự do, toàn vẹn lãnh thổ lên trên hết. Từ đó, Người xác định mâu thuẫn chủ yếu, nổi bật trong xã hội Việt Nam lúc này là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thế lực đế quốc xâm lược, kẻ thù chính yếu của nhân dân Việt Nam lúc này là đế quốc cướp nước, áp bức bóc lột nhân dân ta. Người khẳng định: “Muốn làm cách mạng thắng lợi thì phải phân biệt rõ ai là bạn, ai là thù, phải thực hiện thêm bầu bạn, bớt kẻ thù” (1). Đó là vấn đề có tính nguyên tắc của mọi cuộc cách mạng. Đối với một dân tộc nhỏ lại phải đối đầu với các kẻ thù lớn và thâm độc thì việc “làm cho nước mình ít kẻ thù hơn hết và nhiều bạn đồng minh hơn hết” càng trở nên cấp thiết.
Tư tưởng “thêm bạn, bớt thù” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi vào thực tiễn cách mạng Việt Nam với những chủ trương hết sức linh hoạt và phong phú như lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù; nhân nhượng có nguyên tắc để lôi kéo đồng minh; phân biệt chính phủ hiếu chiến với nhân dân yêu chuộng hòa bình của nước đối phương; độ lượng, khoan dung, lôi kéo những người đã lầm đường, lạc lối trở về với cách mạng. Lợi dụng triệt để mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù là chủ trương, biện pháp quan trọng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng để “thêm bạn, bớt thù”. Tại Hội nghị Trung ương 8 (5-1941), Người xác định nguyên nhân của Chiến tranh thế giới lần thứ II là do chính sách hiếu chiến, phản động của lực lượng phát xít và trong cuộc chiến tranh này, phe phát xít nhất định sẽ thất bại, phe đồng minh sẽ chiến thắng. Từ đó, Người xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam lúc này “là một bộ phận trong phe dân chủ chống phát xít” và quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh. Việc lựa chọn con đường đúng đắn, thuận lợi cho dân tộc bằng cách đứng về phe chính nghĩa để chống phe phi nghĩa, trên cơ sở dự báo chính xác diễn biến của tiến trình lịch sử đã thể hiện tầm nhìn sáng suốt và hành động mau lẹ, khôn khéo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta.
Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta chủ động tranh thủ tìm bạn đồng minh cho Mặt trận Việt Minh ngay lúc còn non trẻ. Việc thiết lập quan hệ với Quốc dân Đảng Trung Hoa và Mỹ trước thềm Cách mạng Tháng Tám đã tạo ra những điều kiện quốc tế thuận lợi cho chính quyền cách mạng, vì theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “…các nước Đồng minh… không thể không nhận quyền độc lập của dân Việt Nam… một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”(2). Sau Cách mạng Tháng Tám, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đứng trước muôn vàn khó khăn, nhất là “nguy cơ giặc ngoại xâm” khi cùng lúc hiện diện quân đội của nhiều quốc gia như Anh, Pháp và quân đội Tưởng Giới Thạch. Trong tình thế đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Không nên cùng một lúc đánh tay 5, tay 6 với lũ cướp nước và bán nước. Đấm bằng cả hai tay một lúc là không mạnh”(3). Chân lý đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta vận dụng vào thực tiễn và trở thành sách lược về lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch. Đó là sách lược ngoại giao dựa theo nguyên tắc “thêm bạn, bớt thù”, đảm bảo giành và giữ nền độc lập, tránh trường hợp một mình đối phó với nhiều lực lượng; triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa hai khối nước lớn Anh - Pháp và Mỹ - Tưởng; tranh thủ sự đồng tình của Liên Xô, của nhân dân Pháp, nhân dân Trung Quốc và cả loài người tiến bộ. Nhờ đó, chỉ trong vòng hơn một năm, nền ngoại giao non trẻ Việt Nam dưới sự chèo lái của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã thực hiện các sách lược ngoại giao khác nhau, như lúc thì hòa với Tưởng để tập trung chống Pháp ở miền Nam (8-1945 đến 3-1946), lúc thì hòa với Pháp để đuổi Tưởng về nước (3-1946 đến 12- 1946). Sự linh hoạt đó đã giúp cách mạng Việt Nam thoát khỏi tình thế “bị kẹp cả 2 phía: Bọn Pháp và bọn Quốc dân Đảng”(4). Chủ tịch Hồ Chí Minh thấu hiểu nghệ thuật ngoại giao là nghệ thuật làm cho mình ít kẻ thù nhất. Vì vậy, Người không chỉ triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa các tập đoàn đế quốc mà còn khơi sâu mâu thuẫn trong nội bộ quân Tưởng và quân Pháp để làm giảm sức mạnh của những đội quân xâm lược.
Sau này, tại Đại hội III của Đảng (1960), Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta xác định: Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù “là một nguyên tắc chiến lược chứ không chỉ là vấn đề sách lược”(5). Từ đó, Đảng đưa ra chủ trương: “Đoàn kết bất cứ người nào có thể đoàn kết được, tranh thủ bất cứ người nào có thể tranh thủ được, trung lập bất cứ người nào có thể trung lập, cốt nhằm phân hóa kẻ thù đến cao độ và cô lập chúng”(6). Thực hiện chủ trương đó, Đảng ta đã có nhiều biện pháp khôn khéo nhằm khoét sâu mâu thuẫn giữa đế quốc Mỹ và các đồng minh của họ; giữa Mỹ với các nước phụ thuộc; giữa Mỹ và chính quyền tay sai ở miền Nam Việt Nam; khắc phục được những tác động tiêu cực do bất đồng giữa các nước trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ tối đa của các nước xã hội chủ nghĩa, các lực lượng tiến bộ trên thế giới, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến.
Để thực hiện quan điểm “thêm bạn, bớt thù”, người cách mạng phải biết thỏa hiệp, biết nhân nhượng đúng lúc, đúng đối tượng để bảo toàn lực lượng, để lôi kéo đồng minh; nếu thấy cuộc đối đầu trực diện là không thể thắng do tương quan lực lượng bất lợi mà vẫn cứ đối đầu thì “đó là tội ác”. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, có lúc Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã chấp nhận những điểm dừng tạm thời, mang tính sách lược. Kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ta đã chấp nhận đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền để đạt được mục đích quan trọng là buộc các nước tham gia ký Hiệp định Giơnevơ cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Pháp phải rút khỏi Đông Dương, miền Bắc Việt Nam được hoàn toàn giải phóng, đặt cơ sở pháp lý quốc tế cho cuộc đấu tranh thống nhất đất nước sau này. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, sau gần 5 năm đấu tranh tại Hội nghị Pari, cuối cùng ta đã đạt được mục tiêu “đánh cho Mỹ cút” để rồi tiến tới “đánh cho ngụy nhào”. Sự thỏa hiệp đó đã có tác dụng thu hẹp lực lượng cần đánh đổ khi gạt ra khỏi miền Nam Việt Nam hàng chục vạn lính viễn chinh Mỹ và đồng minh. Biết thỏa hiệp để bảo toàn lực lượng là sáng suốt; biết nhân nhượng đúng mức, không quá “tả” để phá vỡ đàm phán, không quá “hữu” để tổn hại đến lợi ích cơ bản của dân tộc là sách lược khôn khéo.
Để “thêm bạn, bớt thù”, Chủ tịch Hồ Chí Minh phân biệt rõ ràng giữa nhân dân yêu chuộng hòa bình với bọn phản động, hiếu chiến trong chính phủ của nước đối phương. Trả lời phỏng vấn của một nhà báo Ôxtrâylia, tháng 8 năm 1963 và tháng 4 năm 1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trước đây, chúng tôi đã chú ý phân biệt thực dân Pháp và nhân dân Pháp yêu chuộng hòa bình, thì ngày nay chúng tôi cũng chú ý phân biệt nhân dân Mỹ vĩ đại có truyền thống tự do, với bọn can thiệp Mỹ và bọn quân phiệt ở Hoa Thịnh Đôn”, “Chúng tôi phân biệt nhân dân Mỹ với đế quốc Mỹ. Chúng tôi muốn có những quan hệ hữu nghị và anh em với nhân dân Mỹ mà chúng tôi rất kính trọng…”(7). Trong lực lượng của đối phương thì “thêm bạn” chính là “bớt thù”, vì khi đó nhân dân Việt Nam chỉ phải chống chính phủ hiếu chiến của Pháp và Mỹ chứ không phải chống toàn bộ nước Pháp và nước Mỹ. Tương quan lực lượng vì thế đã xoay chuyển theo chiều hướng có lợi cho ta. Chủ trương đó đã làm kẻ thù bị cô lập trên thế giới và đặc biệt bị cô lập ngay trong nội bộ đất nước họ; làm cho cả nhân loại, kể cả nhân dân nước đi xâm lược trở thành những người bạn ủng hộ hết mình cho sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta. Để “thêm bạn, bớt thù”, Hồ Chí Minh nêu lên chủ trương khoan hồng, độ lượng với những người Việt Nam đã từng làm tay sai cho đế quốc, thực dân. Trong quá trình xâm lược nước ta, các đế quốc, thực dân luôn cấu kết với lực lượng phản động trong nước, thi hành chính sách thâm độc “dùng người Việt trị người Việt”. Vì vậy, để chống chủ nghĩa thực dân, đặc biệt là chủ nghĩa thực dân mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra chủ trương cô lập kẻ thù đế quốc bằng cách cảm hóa, lôi kéo những người Việt lầm đường, lạc lối trở về với chính nghĩa, với dân tộc; loại bỏ vây cánh, phần tử tay sai của chúng. Xuất phát từ quan điểm đó, Người chủ trương: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”(8). Nếu không có tư tưởng khoan hồng thì khi chiến tranh kết thúc rất dễ xảy ra những bi kịch mới như nội chiến, xung đột, tạo cơ hội cho kẻ thù ngoại bang quay lại - điều đã và đang xảy ra ở rất nhiều quốc gia khác. Vì vậy, chủ trương khoan dung của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa có tính nhân văn, vừa là phương pháp hiệu quả để vô hiệu hóa âm mưu thâm độc của kẻ thù.
Là một dân tộc yêu chuộng hòa bình, nhưng lại phải thường xuyên đối mặt với chiến tranh xâm lược. Để bảo vệ các quyền lợi chân chính của dân tộc, Việt Nam nhất thiết phải thực hiện tư tưởng “thêm bạn, bớt thù”, phải coi đó là một nguyên tắc chiến lược chứ không phải chỉ là sách lược hay thủ đoạn chính trị. Tuy nhiên, để “thêm bạn, bớt thù” phải xác định đúng ai là bạn, ai là thù, lúc nào là bạn, lúc nào là thù, mặt nào là bạn, mặt nào là thù, nghĩa là xác định đúng đối tác, đối tượng và mối quan hệ đan xen tác động, chuyển hóa giữa chúng trong từng trường hợp, từng thời điểm cụ thể để tranh thủ mặt đối tác, đấu tranh ngăn ngừa, loại bỏ mặt đối tượng.
Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc ngoại giao “thêm bạn, bớt thù”, Đảng ta đã xác định đúng đắn, khoa học về đối tác, đối tượng của cách mạng Việt Nam hiện nay. Với tư duy mới, Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đã khái quát thành nguyên tắc, thể hiện cách nhìn nhận mới và thống nhất về đối tác, đối tượng. Sau khi Nghị quyết được ban hành, nguyên tắc xác định và xử lý quan hệ đối tác, đối tượng được kiểm nghiệm và khẳng định tính đúng đắn. Nghị quyết Trung ương 8, khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đã đưa nguyên tắc trên thành quan điểm: “Những ai tôn trong độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rông quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh. Mặt khác, trong tình hình diễn biến nhanh chóng và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn biện chứng: Trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh”.
Quan điểm về đối tác, đối tượng là một trong những điểm nổi bật, có sự đột phá trong tư duy mới của Đảng về bảo vệ Tổ quốc; vừa giữ nguyên tắc, vừa linh hoạt trong quan hệ quốc tế, kịp thời phát hiện cơ hội để khai thác, nhận rõ thách thức để hóa giải, không để rơi vào tình thế bị động, bất ngờ. Xử lý mối quan hệ đối tác, đối tượng trên quan điểm tổng thể, lấy lợi ích cơ bản, lâu dài của quốc gia, dân tộc làm nền tảng; không vì lợi ích cục bộ, trước mắt mà làm tổn hại đến lợi ích lâu dài. Trong khi tăng cường quan hệ đối tác, chúng ta vẫn kiên trì đấu tranh, giải quyết thỏa đáng các vấn đề nảy sinh, các tình huống phức tạp, mâu thuẫn, bất đồng, góp phần giữ vững và củng cố môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.
Đối tác của Việt Nam trong tình hình mới là những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam. Trong đó, Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì hòa bình, hợp tác và phát triển.Hiện nay, trong quan hệ đối ngoại có thể phân loại một số đối tác theo mức độ quan hệ như: Đối tác truyền thống, đối tác tin cậy, đối tác chiến lược đối tác chiến lược toàn diện, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện…
Đối tượng của cách mạng Việt Nam trong tình hình mới là những thế lực có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là âm mưu, hành động gây chiến tranh xâm lược; “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ chế độ; xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc bằng phương thức vũ trang hoặc phi vũ trang, cả từ bên ngoài và bên trong. Trong đó, có ba dạng đối tượng: đối tượng đối lập về ý thức hệ có âm mưu và hành động tập trung xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta; đối tượng vì lợi ích dân tộc hẹp hòi có ý đồ tranh đoạt chủ quyền lãnh thổ nước ta; đối tượng có thể bị các nước lớn thao túng, có âm mưu và hành động chống phá ta.
Quan điểm trên của Đảng ta không những chỉ ra các dấu hiệu cơ bản quan trọng để nhận thức đâu là đối tác có thể mở rộng quan hệ hợp tác, đâu là đối tượng cần phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh, mà còn cho thấy tư duy biện chứng sâu sắc, toàn diện của Đảng ta về mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng, hoàn toàn phù hợp với tình hình diễn biến nhanh chóng và phức tạp hiện nay. Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX đã nêu “... trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta”. Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI, tiếp tục làm rõ và khẳng định tính hai mặt cùng tồn tại, đan xen, chuyển hóa lẫn nhau một cách phổ biến trong mỗi đối tác và mỗi đối tượng: “... trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh”. Tư duy biện chứng của Đảng ta được thể hiện sâu sắc trong giải quyết mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng với mỗi chủ thể nhất định.
Trước hết, khi đã nhận thức về đối tác và đối tượng trong cùng một chủ thể thì phải lấy mụctiêu “xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” làm tiêu chuẩn để quyết định mức độ quan hệ hợp tác. Nghĩa là, trong khi mở rộng quan hệ hợp tác với đối tác cần nêu cao tinh thần cảnh giác phát hiện các mâu thuẫn có thể nảy sinh để kịp thời đấu tranh. Đồng thời, trong đấu tranh với đối tượng không có nghĩa là phân tuyến đối đầu mà cần tranh thủ mọi cơ hội tìm hiểu, tạo lòng tin để đi đến tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau và mở rộng hợp tác bình đẳng cùng có lợi. Mục tiêu cơ bản, lâu dài trong nhận thức và vận dụng quan điểm về đối tác, đối tượng là nhằm không ngừng tăng cường đoàn kết, mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị với bè bạn quốc tế, khai thác mặt đối tác, ngăn ngừa, hạn chế, thu hẹp mặt đối tượng.
Cần thấy rõ tính biện chứng, sự tồn tại đan xen và chuyển hóa lẫn nhau rất linh hoạt giữa đối tác và đối tượng trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Tuyệt đối tránh cách nhìn nhận, đánh giá phiến diện về đối tác, đối tượng. Nếu chỉ coi trọng xác định mặt tích cực mà không thấy mặt tiêu cực cùng những mâu thuẫn của đối tác là không đúng. Tương tự, chỉ thấy mặt tiêu cực, những mâu thuẫn, bất đồng, không thấy mặt tích cực, tương đồng trong từng đối tượng cũng là nhận thức sai.
Nhận thức đúng mối quan hệ đối tác, đối tượng là định hướng rất quan trọng để các cấp, ngành, lĩnh vực xử lý các vấn đề, các tình huống trong quan hệ hợp tác quốc tế một cách đúng đắn, linh hoạt, sáng tạo. Qua đó, tăng mặt đồng thuận, giảm thiểu bất đồng trong quan hệ quốc tế nhằm mục tiêu vì lợi ích quốc gia, dân tộc, đưa nước ta không ngừng phát triển, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, góp phần giữ vững hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam luôn mong muốn là bạn, là đối tác tin cậy của mọi quốc gia vì lợi ích và sự phát triển của chính Việt Nam và cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải hết sức tỉnh táo. Việc xác định có hay không có đối tác và đối tượng vĩnh viễn là vấn đề hết sức nhạy cảm, cần nghiên cứu, cân nhắc thấu đáo. Ngay trong những đối tác cũng có cấp độ quan hệ khác nhau, như: đối tác, đối tác toàn diện, đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện. Ngay với đối tượng cũng có đối tượng trong thời điểm nhất định, có đối tượng cơ bản, lâu dài. Thực tế cho thấy, trong quan hệ quốc tế, với một quốc gia cụ thể, ở thời điểm, giai đoạn, lĩnh vực này là đối tượng, nhưng vào thời điểm, giai đoạn, lĩnh vực khác lại có thể trở thành đối tác. Thậm chí giữa những nước có thể chế chính trị khác nhau, hoặc giữa những nước tồn tại tranh chấp chủ quyền với nhau lại có thể thành đối tác, đối tác chiến lược. Ngược lại, không ít quốc gia, tuy có cùng ý thức hệ hoặc trước đây là đồng minh nhưng ở vào thời điểm cụ thể, lĩnh vực nhất định vẫn có thể là đối tượng của nhau./.
Đại tá, PGS. TS Phạm Thanh Giang
Phó CNK – Học viện Chính trị
Chú thích:
(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 13, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr.453.
( 2), (7), (8) Sđd, tập 4, tr.3; tập 14, tr.304; tập 9, tr.224.
(3) Bộ Ngoại giao (1990), Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác ngoại giao, Nxb.ST, H. tr.90-91.
(4) Bộ Ngoại giao (2001), Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp giành độc lập tự do (1945 -1975), Nxb.CTQG, H, tr.45.
(5). Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh - trực thuộc Bộ Chính trị (1995), Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - thắng lợi và bài học, Nxb.CTQG, H, tr.258.
(6). Đảng Cộng sản Việt Nam (1985), Một số văn kiện của Đảng về chống Mỹ, cứu nước, tập 1, Nxb. ST, H, tr.75.