bh-a

Sinh thời Hồ Chí Minh hết sức quan tâm và cũng đặc biệt thành công trong lĩnh vực xây dựng đội ngũ cán bộ. Những gì Người để lại trong lĩnh vực này cho đến nay mang tầm vóc của một di sản ở chỗ: Nó cho thấy một phương pháp khoa học và tiên tiến; một chiến lược lâu dài cho đường lối và cách mạng nước nhà. Tại sao Người rất quan tâm đến việc xây dựng con người? Chúng tôi nhận thức từ những cơ sở sau đây: Người quan tâm đến hầu hết các đối tượng, các thế hệ, các tầng lớp trong cộng đồng; là người đứng đầu một nhà nước dân chủ người biết rõ những người cán bộ phải là những người có tài và có đức; Người thấy từ rất sớm về đội ngũ nhân lực cho hiện tại cũng như cho tương lai của dân tộc… Cuối cùng, một trong những yếu tố tạo thành  giá trị trong nhân cách Hồ Chí Minh chính là những việc làm vì con người, cho con người, vì dân tộc và cho dân tộc.

Đặt sự hiểu biết của người dân trong đó có cán bộ ở tầm chiến lược  của dân tộc khi Người nói: “Một dân tộc đốt là một dân tộc yếu” (1) (nếu muốn không dốt thì phải học, học liên tục, học suốt đời để dân tộc đó có trí tuệ bền vững, nghĩa là việc học là việc chiến lược, liên tục, lâu dài).

Một trong những việc làm đầu tiên trong hoà bình kiến quốc là việc học để “diệt giặc dốt”. Coi việc học của công dân như là việc đánh giặc, rõ ràng là vấn đề đó được đặt ở tầm quốc sách, chiến lược.

Một trong những tiêu chuẩn đánh giá cán bộ, rất cơ bản nhưng bao quát về người cán bộ cũng mang tầm chiến lược dùng người và rèn luyện nhân cách đó là: Tiêu chuẩn tài và đức. Tài mà thiếu thì khó làm mọi việc, đức thiếu thì vô dụng. Phẩm chất của công chức chính là vấn đề chiến lược của Đảng và chính phủ trong việc xây dựng và hoàn thiện tổ chức  nhà nước và đổi mới hệ thống chính trị.

Có thể nói, những giáo huấn Hồ Chí Minh liên quan đến yêu cầu nâng cao sự hiểu biết về chuyên môn nghiệp vụ, rèn luyện chuyên môn đa phần nhằm vào công việc của người cán bộ trong bộ máy hành pháp. (Ở giai đoạn này, khi Hồ Chủ tịch đưa ra những chỉ thị giáo dục cán bộ công chức cũng chưa phân biệt người làm việc trong bộ máy của Đảng và người làm việc trong bộ maý nhà nước. Nói chung những bài nói, bài viết của Người phần lớn liên quan đến đội ngũ những người làm trong bộ máy nhà nước và đại bộ phận họ nằm trong bộ máy chính quyền).  

Chính Hồ Chủ tịch là người Vịêt Nam đầu tiên chỉ ra vị trí cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước. Do vậy, người có những lời dạy đối với đảng viên thì phần lớn là những đảng viên trong bộ máy chính quyền. Hơn nữa, vào thời kỳ này vấn đề phân quyền ở nước ta cũng chưa có điều kiện bàn tới như một phần của khoa học chính trị mà chỉ thể hiện trong cấu trúc thiết chế của Hiến pháp. Nhưng sự vận hành của bộ máy hành pháp là hoạt động cơ bản, bao trùm vì thời kỳ này nước ta đang trong giai đoạn của  thời kỳ  kháng chiến.

Những gì Hồ Chí Minh nói về đạo đức, tác phong, yêu cầu học tập của cán bộ đều liên quan đến đội ngũ cán bộ công chức trong bộ máy hành pháp.

Nhận xét về những chỉ giáo của Hồ Chí Minh  liên quan đến kiến thức, hiểu biết nói chung của cán bộ công chức, có thể thấy chúng không chỉ dừng lại như những kiến thức văn hoá, thậm chí kiến thức chuyên môn, mà còn cả những kiến thức về chính trị, đạo đức, nhân văn. Muốn có kiến thức phải học tập. Việc học diễn ra trong nhà trường, ở cơ quan, đoàn thể ở trong xã hội và trong nhân dân... Ở đây xin nêu một số chủ đề do Hồ Chí Minh đặt ra cho việc học:

- Học để phụng sự Tổ quốc và nhân loại; phụng sự nhân dân và phụng sự giai cấp

Đó là yêu cầu chính trị, vừa là sứ mệnh của công dân trước Tổ quốc, vừa là trách nhiệm của một con người trước nhân lọai. Người phụng sự trực tiếp cho Tổ quốc chính là người làm việc trong bộ máy công quyền, là những cán bộ và công chức. Mỗi cá nhân là thành viên của một nhà nước và mỗi quốc gia là một tế bào tạo nên thế giới của loài người, của nhân loại.

Với sự thấm nhuần giữa quốc gia, dân tộc, với những nguyên lý Mácxít về sứ mệnh chung của mỗi thành viên đối với sự tiến bộ nhân loại, những giáo huấn của người thường không dừng lại ở quan hệ của mỗi các nhân đối với tổ quốc và còn mở rộng thành quan hệ trong một thế giới đồng loại. Đối với một quốc gia, Hồ Chủ tịch cho rằng: “Một dân tộc dốt là dân tộc yếu”. Hiện nay, chúng ta đang đứng trước những thách thức trước câu hỏi làm thế thế nào để có nguồn lực đáp ứng yêu cầu hội nhập, đúng như phán đoán của Người.

Nếu liên hệ với chỉ thị của Người về việc học để phụng sự Tổ quốc và nhân dân cũng có thể khẳng định rằng, một nền hành chính gồm những người cán bộ công chức dốt thì không thể hoàn thành bổn phận công bộc cho dân, không thể tạo ra  sức mạnh của bộ máy quyền lực  được ...

Học để làm cán bộ, để làm việc

Đây chính là giáo huấn giành riêng cho cán bộ công chức và đoàn thể. Tư tưởng về sự cần thiết phải học tập để có kiến thức cho mỗi con người nói chung và cho những người công bộc của dân nói riêng xuất phát từ mấy quan điểm cơ bản:

Xã hội nào cũng cần con người thích hợp; muốn có chủ nghĩa xã hội cần có con người xã hội chủ nghĩa. Do vậy, muốn làm cán bộ trước hết phải học. “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, “giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại” (2).

Nói theo hiệu quả của công việc, cán bộ tốt là tiền vốn của đoàn thể (cán bộ công chức tốt sẽ là tiền vốn của nhà nước, dân tộc và quốc gia); không có cán bộ thì hỏng việc. Tốt là một phạm trù hai mặt “hồng” và “chuyên”, nếu chỉ có hồng mà không có chuyên thì làm việc gì cũng khó.

Học là một công việc trau dồi kiến thức. Nhưng học không có nghĩa là chỉ học ở nhà trường. Trong điều kiện đất nước còn khó khăn của những năm kháng chiến gian khổ, việc học lại càng khó khăn hơn.

Từ thực tiễn của việc học và điều kiện khó khăn của nước nhà, Hồ Chủ Tịch đã chỉ cho mọi người  thấy phương pháp để có thể học được, đó là:

Học ở trường học, ở sách vở (đại học thì làm gì, trung học, tiểu học thì làm gì)

Học ở nhân dân, Người nói thế giới ngày nay đổi mới nhân dân ngày càng tiến bộ, nếu cán bộ công chức không học thì thành ra lạc hậu vậy phải học để “ tiến bộ đuổi kịp nhân dân” (3).

Cán bộ công chức phải tự học và tự mình học lấy những cái mới mỗi người cần phải rèn luyện và coi việc học như một nhu cầu (của sự hứng thú và của công việc). Vì vậy, Người nêu cao khẩu hiệu “Học không biết chán, dạy không biết mỏi” (4).

Bên cạnh đó, tự học không những là phương pháp mà còn là phương châm của hành động. Hồ Chủ tịch cho rằng: “Lấy tự học làm cốt... Sắp xếp thời gian và bài học phải khéo, phải có mạch lạc với nhau, mà không xung đột với nhau” (5). Ngày nay, cán bộ công chức được hưởng những điều kiện hoàn toàn mới: được ưu đãi về thời gian, được ngân sách cho học tập, được lượng kiến thức trong lộ trình thăng tiến. Điều đó nói lên rằng, học là một phần trong cuộc đời công vụ của công chức và vấn đề học mà Hồ Chủ tịch kêu gọi thực sự là vấn đề mang tính chiến lược. Nhưng tự học mới là cốt lõi của công chức, còn những khóa học bồi dưỡng ngắn ngày chỉ mang tính định hướng dẫn để cán bộ công chức tự nâng cao trình độ là chủ yếu, và điều đó rất phù hơp với việc học của công chức ở các nước tiên tiến. (Nếu người nào muốn học chính qui phải tự sắp xếp thời gian và học theo hình thức tín chỉ như chúng ta đang chuyển đổi trong giáo dục hiện nay).

Thực tiễn cũng là trường học. Nguyên lý của việc học đã được Hồ Chí Minh đúc kết và giáo dục cán bộ: Học phải đi đôi với hành. Để tránh sự giáo điều, sách vở của những người chỉ thuần tuý ham chữ, Người cho rằng: nếu chỉ có lao động trí óc mà không có lao động chân tay thì chẳng khác nào người ta bị “bán thân bất toại”; tách rời thực tế thì người có học chỉ như “cái hòm đựng chữ” mà thôi.

Để phòng ngừa bệnh kiêu ngạo của một số người được học, Người đã chỉ ra những căn bệnh của người có học: Xa rời thực tiễn, nói thì cái gì cũng thông nhưng  động vào thực tiễn (những tình huống cụ thể) thì lại lúng túng như từ “trên trời rơi xuống”! Người cho rằng: Những người vì có ít chữ mà đã cho là trí thức thì chưa phải là “trí thức hoàn toàn” nếu ai coi thường, khinh rẻ lao động thì chúng ta “ kiên quyết chống lại”.

Một số quan điểm còn rất thời sự mà Hồ Chủ tịch phát biểu tại Hội nghị Giáo dục toàn quốc năm 1948 (6), đó là:

1) Phải sửa đổi triệt để chương trình giáo dục cho phù hợp với sự nghiệp kháng chiến kiến quốc. Theo chúng tôi, đây là quan điểm giáo dục phải đáp ứng nhu cầu của xã hội. Quan điểm này thể hiện rõ cả trong giáo dục  đào tạo và bồi dưỡng đối với đội ngũ cán bộ công chức.

Không thể cứ dạy theo kiểu người dạy cứ nói, người nghe cứ nghe. Người dạy không giải đáp được những vấn đề của thực tiễn khi người học có câu hỏi muốn làm rõ. Vì vậy, chương trình của thời bao cấp cần phải thay thế hoặc sửa đổi một cách phù hợp với thời kỳ đổi mới; đổi mới giai đoạn đầu (giai đoạn hội nhập trên “giấy”) phải phù hợp với giai đoạn tiếp theo (giai đoạn hội nhập).

2) Chúng ta phải sửa đổi cách dạy. Cách dạy ở đây bao hàm cả cách dạy của giáo giới và cách dạy theo đối tượng: Dạy ai cái gì và ai đi học cái gì? Có nên tiếp tục hay kéo dài việc đào tạo công chức theo kiểu "tiền bổ" như hiện nay, nghĩa là một người giữ chức vụ rồi (do bầu hay do bổ nhiệm ) mới "cắp sách đi học".

Thực tiễn giáo dục và đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân cũng như trong hệ thống công vụ hành chính đang trở thành vấn đề báo động. Đó là sự cách biệt giữa cái học trong nhà trường và cái cần ngoài xã hội.

3) Phải đào tạo cán bộ mới và giúp đỡ cán bộ cũ. Đây là quan điểm có thể sát hợp vớp quan điểm chuẩ hoá kiến thức cho cán bộ công chức trong đó có những người của bộ máy hành chính. Do vậy, muốn giúp đỡ phải bồi dưỡng cập nhật kiến thức cho họ khi có những chính sách hay tình huống mới của quản lý đặt ra.

Ở nước ta đã từng tồn tại chế độ hậu bổ, nghĩa là một người học đáp ứng với tiêu chuẩn qui định cho một  chức vụ thì mới được bổ nhiệm vào chức vụ. (Tất nhiên cũng không thể cực đoan việc học một lần là xong, mà cần có sự bồi dưỡng có tính cập nhật. Việc này hoàn toàn khác với tình hình hiện nay là có người được bầu hay bổ nhiệm vào chức vụ lại phải đi học để có một bằng cấp cao hơn kiến thức họ  có).

Vận dụng như thế nào?

Trong thời kỳ đổi mới đang đặt ra những khó khăn và thử thách từ nhiệm vụ kinh tế xã hội, an ninh và quốc phòng. Thực tiễn, kinh tế - xã hội và những tình huống chiến lược cũng như những nhiệm vụ cụ thể nhiều khi chúng ta tỏ ra bế tác chỉ vì việc học. Bế tắc không phải chúng ta không chú ý đến việc học tập đối với nền giáo dục quốc dân và đối với bộ mấy nhân lực của Chính phủ, mà ngược lại chúng ta mới đứng vững cho đến ngày nay với một nhà nước độc lập tự chủ, kinh tế phát triển nhanh, đời sống nhân dân không ngừng cải thiện.

Hiện nay, chúng ta chưa có chương trình cụ thể để gắn việc học với điều kiện của thực tiễn. Trên thực tế, chúng ta vẫn đào tạo theo kiểu làm cái gì thì học cái đó trước, mà những cái đó thì rất nhiều, phải học suốt đời. Đưa người đã học vào bộ máy công chức là chính, lấy người chưa học là phụ (dẫn đến tình trạng: Sinh viên thất nghiệp, công chức đi học tại chức...). Do vậy, cần có chương trình, kế hoạch đào tạo cụ thể, với từng đối tượng phân bổ thời gian, bố trí công việc hợp lý, phù hợp. Bên cạnh đó, phải tiếp cận với những hình thức và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức của các nước để vận dụng vào điều kiện thực tiễn của Việt Nam.

Có thể nói, một trong những điều mà giáo huấn Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng Hồ Chí Minh chính là giá trị “đi cùng thời đại” của những di sản mà Người để lại trong lĩnh vực xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước ta.   

___________

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002, t.4, tr.8.

2,5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002, t.5, tr.684, 273.

3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002, t.8, tr.215.

4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002, t.6, tr.46.

6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002, t.5, tr.462.

Theo GS, TS. Nguyễn Hữu Khiển - Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh

Tâm Trang (st)

Bài viết khác: