Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng và quan tâm đến việc giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, nhất là đạo đức và uy tín của người cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng uy tín người cán bộ
Ngay từ những ngày đầu cách mạng, Hồ Chí Minh đã rất coi trọng công tác cán bộ. Theo Người, cán bộ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng của toàn dân ta. Người nhấn mạnh: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”(1), và “muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”(2). Người còn chỉ rõ: “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt”(3). Không những thế, Người còn xem “cán bộ là tiền vốn của Đoàn thể”(4). Có vốn mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách, công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là có lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn. Vì thế, một yêu cầu bắt buộc đối với người cán bộ phải là người có đủ đức, đủ tài, có uy tín trước dân. Người cán bộ có uy tín là người được dân tin, dân phục, dân yêu, do đó: “Đảng viên nào không được dân tin, dân phục, dân yêu thì chưa xứng đáng là một người đảng viên của Đảng Lao động Việt Nam”(5). Theo Hồ Chí Minh, người cán bộ có uy tín phải là người có đạo đức cách mạng. Chính vì thế, chữ Tín theo quan niệm này không phải chỉ là sự thuyết phục bằng lời nói, việc làm để cho mọi người tin ở mình, mà điều quan trọng hơn là phải nói cái gì, làm như thế nào để gây dựng và giữ được niềm tin. Vì lời nói và việc làm vừa là hình thức biểu hiện vừa là kết quả, là thước đo phản ánh một cách cô đọng nhất toàn bộ những phẩm chất nhân cách của người lãnh đạo. Để có uy tín trước nhân dân, đòi hỏi người cán bộ phải luôn có đủ những phẩm chất, năng lực đáp ứng được những yêu cầu của tình hình thực tiễn đặt ra. Chính vì vậy, ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc cũng như công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Hồ Chí Minh lại đề ra những tiêu chí cụ thể để xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ.
Trong thời kỳ Đảng ta đang phải hoạt động bí mật, Hồ Chí Minh đã hết sức quan tâm đến việc xây dựng tư cách người cán bộ cách mạng để lãnh đạo được quần chúng nhân dân. Tư cách người cán bộ cách mạng được xem xét, đánh giá trong các mối quan hệ với bản thân mình, với công việc và với đoàn thể. Ngay khi chuẩn bị cho lớp cán bộ đầu tiên, Người đã đề ra hệ tiêu chuẩn có tính bắt buộc mà người cán bộ cần phải phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện để trở thành người có tư cách đạo đức cách mạng, đó là: “Tự mình phải:
Cần kiệm.
Hòa mà không tư.
Cả quyết sửa lỗi mình.
Cẩn thận mà không nhút nhát.
Hay hỏi.
Nhẫn nại (chịu khó).
Hay nghiên cứu, xem xét.
Vị công vong tư.
Không hiếu danh, không kiêu ngạo.
Nói thì phải làm.
Giữ chủ nghĩa cho vững.
Hy sinh.
Ít lòng tham muốn về vật chất.
Bí mật”(6).
Sở dĩ Người đề ra tiêu chuẩn như vậy bởi lẽ lớp cán bộ cách mạng đầu tiên này nếu không kiên trì, không nhẫn nại, không dám xả thân thì không thể lãnh đạo quần chúng làm cách mạng. Tư cách người cán bộ còn được thể hiện qua cách ứng xử, giải quyết công việc trong mối quan hệ với đoàn thể. Theo đó, người cán bộ cần phải chủ động, sáng tạo, quyết đoán, kỷ luật và quả cảm trong công việc, tạo được lòng tin và có khả năng tập hợp quần chúng. Việc tuyển chọn cán bộ, theo Hồ Chí Minh, phải căn cứ vào khả năng công tác, vào sự hăng hái nhiệt tình, tinh thần dám xả thân cho lợi ích chung, kinh nghiệm, sự nhận thức chính trị đúng đắn, nhất là năng lực phân tích tình hình và giải quyết vấn đề lúc nguy cấp của mỗi cán bộ. Bên cạnh đó, người cán bộ lãnh đạo còn cần phải có năng lực tổ chức, sắp đặt công việc và có năng lực sư phạm khéo léo để vận động, thuyết phục quần chúng.
Trong thời kỳ kháng chiến kiến quốc, người cán bộ cách mạng từ hoạt động bí mật chuyển sang hoạt động công khai, làm công tác lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan Đảng và Nhà nước. Khi có chức, có quyền lực trong tay, nhiều người trong số họ rất dễ thay đổi, biến chất; bệnh quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tư lợi cá nhân,… xuất hiện và có xu hướng gia tăng. Nhận rõ vấn đề này, Hồ Chí Minh đã đặc biệt chú ý đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ với tư cách là người lãnh đạo đồng thời là công bộc của dân. Vì thế, ngay từ ngày đầu khi mới giành được chính quyền, Hồ Chí Minh đã yêu cầu người cán bộ cách mạng phải làm việc theo nguyên tắc: “Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh” và “muốn được dân yêu, muốn được lòng dân, trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh thần chí công vô tư”(7). Cán bộ “các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải đè đầu dân”(8). Cho nên, đạo đức của người cán bộ lúc này là luôn làm việc vì Đảng, vì dân, chí công vô tư, vừa “hồng” vừa “chuyên”, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ trước bất kỳ khó khăn nào. Cho nên, muốn đánh giá cán bộ phải lấy uy tín và hiệu quả công việc là tiêu chí cơ bản, thước đo chủ yếu. Do vậy, một yêu cầu bắt buộc đặt ra với người lãnh đạo phong trào, lãnh đạo quần chúng nhân dân là phải biết xây dựng và củng cố uy tín công tác của mình; được quần chúng tin cậy, thừa nhận; là người biết tập hợp quần chúng, tổ chức các hoạt động và các phong trào quần chúng.
Về cách thức, phương pháp xây dựng uy tín cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, Hồ Chí Minh cho rằng mạnh dạn tự phê bình và phê bình là phương pháp hữu hiệu để đội ngũ này ngày càng tiến bộ, ngày càng có uy tín. Người chỉ rõ: “Uy tín của người lãnh đạo là ở chỗ mạnh dạn thực hiện tự phê bình và phê bình, biết học hỏi quần chúng, sửa chữa khuyết điểm, để đưa công việc ngày càng tiến bộ chứ không phải ở chỗ giấu giếm khuyết điểm và e sợ quần chúng phê bình”(9). Người còn nhắc nhở đội ngũ cán bộ: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”(10). Hồ Chí Minh từng cho rằng, uy tín của người cán bộ không phải tự nhiên mà có. Uy tín đó được hình thành và phát triển phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trước hết là quá trình tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, năng lực và khả năng thu phục nhân tâm, xây dựng lòng tin với quần chúng nhân dân của người cán bộ lãnh đạo.
Thực trạng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong giai đoạn hiện nay
Hiện nay, đội ngũ cán bộ lãnh đạo - quản lý là nhân tố tiên phong, nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thời gian qua, đội ngũ cán bộ lãnh đạo - quản lý các cấp đã có bước trưởng thành và tiến bộ về nhiều mặt. Đa số cán bộ, đảng viên có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, có ý thức phục vụ nhân dân, được nhân dân tin tưởng. Sau gần 30 năm đổi mới, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã thu được những thành quả nhất định, trong đó có sự đóng góp to lớn của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo - quản lý được tôi luyện, trưởng thành qua thử thách, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần độc lập tự chủ, trung thành với lý tưởng cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn, có ý chí, nghị lực để vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, đưa sự nghiệp đổi mới ngày càng thu nhiều thắng lợi.
Trong giai đoạn hiện nay, đội ngũ cán bộ lãnh đạo - quản lý các cấp đã thích nghi hơn với cơ chế thị trường và tích lũy được thêm nhiều kinh nghiệm, việc hoạch định chính sách, khả năng cụ thể hóa đường lối, chủ trương được nâng lên rõ rệt; tính chủ động, sáng tạo được phát huy; sự giáo điều, thụ động từng bước được khắc phục.
Song song với những ưu điểm nói trên, trong quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ của mình, đội ngũ cán bộ, đảng viên còn bộc lộ nhiều hạn chế, khuyết điểm cả về phẩm chất, năng lực và uy tín. Đại hội XI của Đảng đã nghiêm túc chỉ ra những hạn chế là: “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước”(11). Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI của Đảng đã khẳng định vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, người lãnh đạo quản lý có biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức cách mạng, trong thực hiện nhiệm vụ thiếu trách nhiệm, gây hậu quả vô cùng nghiêm trọng, lạm dụng chức quyền, tham ô, thu lợi bất chính từ công quỹ… Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng giảm lòng tin trong nhân dân đối với Đảng.
Bên cạnh đó, chất lượng đội ngũ cán bộ còn nhiều yếu kém, bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ mới, cả trong lĩnh vực xây dựng Đảng, quản lý nhà nước, quản trị doanh nghiệp và hội nhập kinh tế quốc tế. Ở bộ phận không nhỏ cán bộ - quản lý, từ nhận thức đến năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện mô hình phát triển cũng như bản lĩnh hội nhập và xử lý những tình huống phát sinh còn nhiều lúng túng. Ở một số địa phương, cơ quan, đơn vị, xuất hiện những bộ phận cán bộ chỉ tập trung lợi dụng vị trí lãnh đạo, lạm dụng của công để củng cố lợi ích nhóm. Những hạn chế, khuyết điểm trên đây cần được nghiêm khắc nhìn nhận và khắc phục để lấy lại lòng tin của nhân dân vào Đảng. Bởi vậy, vấn đề chỉnh đốn Đảng và xây dựng uy tín người cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo - quản lý là hết sức quan trọng, cấp thiết hiện nay. Quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về uy tín người cán bộ là một biện pháp quan trọng và có ý nghĩa thiết thực nhằm xây dựng uy tín người cán bộ lãnh đạo - quản lý trong thời kỳ mới.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng uy tín người cán bộ lãnh đạo, quản lý giai đoạn hiện nay
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, vai trò và uy tín của người lãnh đạo càng có ý nghĩa quan trọng. Muốn vậy, trước hết đòi hỏi người lãnh đạo phải thích ứng với những chuyển biến của tình hình mới. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng uy tín người cán bộ lãnh đạo - quản lý giai đoạn hiện nay, Đảng ta đã xác định: “Xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống lành mạnh, không quan liêu, tham nhũng, lãng phí, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; có tư duy đổi mới, sáng tạo, có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”(12). Như vậy, những tiêu chuẩn chung của người cán bộ được thể hiện trên ba mặt cơ bản: Phẩm chất chính trị tư tưởng; đạo đức, lối sống; trình độ, năng lực và chuyên môn công tác. Ba mặt này có quan hệ chặt chẽ, hữu cơ với nhau tạo thành “tư cách” của người cán bộ và cũng là những tiêu chí để người cán bộ hướng tới trong quá trình xây dựng uy tín của mình.
Về phẩm chất chính trị, tư tưởng: Bản lĩnh chính trị vững vàng là cơ sở cho người cán bộ lãnh đạo việc xử lý một cách đúng đắn các tình huống phát sinh trong thực tiễn. Lập trường chính trị và khuynh hướng hoạt động của người lãnh đạo là nhân tố trực tiếp ảnh hưởng đến sự thành công hay thất bại của người lãnh đạo trong việc xử lý các tình huống, vấn đề nhạy cảm. Trong giai đoạn hiện nay, trước những vấn đề phức tạp trong và ngoài nước, người lãnh đạo cần phải thể hiện được bản lĩnh “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm” của mình, để gây dựng lòng tin trong quần chúng, đồng thời đứng vững trước những tác động nhiều chiều của cuộc sống; đương đầu với những thách thức, cám dỗ của cuộc sống. Biểu hiện của phẩm chất chính trị, tư tưởng ở người lãnh đạo qua một số khía cạnh cơ bản như: Luôn có ý thức chính trị trong mọi công việc; có khả năng phát hiện các khuynh hướng chính trị và nhận ra các vấn đề chính trị trong đời sống hằng ngày; biết vận dụng đúng đắn, sáng tạo các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước vào công việc và biết đấu tranh chống lại những luận điệu xuyên tạc, phản động để bảo vệ các quan điểm của Đảng một cách khoa học…
Về đạo đức lối sống: Nói tới đạo đức là nói tới tính nhân, tính thiện, nói tới luân thường đạo lý của mỗi con người, cũng như những chuẩn mực xã hội mà mỗi người phải tuân theo. Đạo đức chính là cái cốt bên trong, là khuynh hướng tốt trong tâm của mỗi người, chi phối suy nghĩ và hành vi của chủ thể. Đạo đức của người cán bộ được Hồ Chí Minh đúc kết trong bốn chữ: Cần, kiệm, liêm, chính. Đạo đức của người lãnh đạo được thể hiện qua mối quan hệ và cách ứng xử với chính mình, với cấp dưới, với công việc và quần chúng nhân dân.
Trong quan hệ với chính mình, người cán bộ phải cần cù chịu khó, không ngại khó, không ngại khổ; tiết kiệm, không xa hoa lãng phí; liêm khiết, trong sạch, không tham nhũng, không lợi dụng chức vụ quyền hạn của mình để mưu cầu lợi ích riêng, sách nhiễu nhân dân; chính trực, ngay thẳng, công tâm luôn sống và làm việc theo pháp luật.
Trong quan hệ với công việc, người cán bộ phải nhiệt tình, say mê, chủ động, sáng tạo, trung thực, có trách nhiệm và bản lĩnh trong công việc; thể hiện ở tinh thần dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm; đồng thời phải luôn có ý thức hợp tác với người khác để đạt tới mục tiêu chung.
Trong quan hệ với cấp dưới, người lãnh đạo phải khoan dung, độ lượng, luôn nhìn thấy những nhân tố tích cực, tiến bộ ở người khác; nhiệt tình giúp đỡ, chân thành, hòa đồng, tôn trọng, đối xử công bằng với mọi người. Đặc biệt, người cán bộ lãnh đạo cần không ngừng học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, nhất là học tập phong cách quần chúng, dân chủ, nêu gương, nêu cao tinh thần trách nhiệm, chống chủ nghĩa cá nhân, nói đi đôi với làm.
Về trình độ, năng lực và chuyên môn công tác: Người lãnh đạo trước hết phải có tri thức, nhạy bén trong suy nghĩ và hành động, có tầm nhìn xa trông rộng. Trong hệ thống tri thức mà người lãnh đạo cần có thì tri thức về lý luận đóng vai trò là nền tảng, đóng vai trò định hướng của hoạt động. Truớc hết là những tri thức về quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, tri thức về chính trị - xã hội.
Năng lực chuyên môn nghiệp vụ là khả năng hoàn thành tốt các công việc của người lãnh đạo. Điều này đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo phải có kiến thức chuyên môn theo từng lĩnh vực nghề nghiệp, từng cương vị công tác và tinh thần học hỏi không ngừng.
Năng lực tổ chức là khả năng sắp xếp, huy động các nguồn lực để hiện thực hóa các vấn đề lý luận, các chủ trương, chính sách, quyết định, chỉ thị, dự án… thành các hành động, việc làm cụ thể trong đời sống xã hội. Người có năng lực tổ chức là người biết xây dựng các kế hoạch làm việc một cách khoa học; biết sắp xếp, bố trí, giúp đỡ và động viên người lao động theo đúng sở trường; biết ra các quyết định một cách kịp thời, chính xác…
Trong phong cách làm việc, yêu cầu quan trọng nhất hiện nay với người lãnh đạo là tính dân chủ trong công tác. Tính dân chủ trước hết là biết lấy lợi ích của nhân dân, của đất nước làm mục tiêu; tôn trọng lợi ích chính đáng và quyền làm chủ của nhân dân; biết làm chủ bản thân, điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích chung của toàn xã hội. Phong cách dân chủ cũng có nghĩa là biết lắng nghe và tôn trọng người khác; biết gần gũi, gắn bó mật thiết, sẻ chia với quần chúng nhân dân.
Do đó, để xây dựng, củng cố và nâng cao uy tín của người cán bộ lãnh đạo - quản lý hiện nay, các giải pháp sau cần thực hiện đồng bộ:
Một là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo - quản lý trong sạch, có phẩm chất, năng lực tốt, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới gắn với chính sách sử dụng hợp lý. Các cấp ủy Đảng từ trung ương đến địa phương cần tích cực rà soát, bổ sung, hoàn thiện quy chế quản lý cán bộ, công chức; phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và thẩm quyền của mỗi cán bộ, công chức; tăng cường tính công khai, minh bạch, trách nhiệm của hoạt động công vụ. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà nước.
Hai là, người cán bộ lãnh đạo cần nuôi dưỡng khát vọng vươn lên, thực hiện lý tưởng của Đảng, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, không được lấy uy tín làm mục đích mà phải coi đó là phương tiện, điều kiện để thực hiện mục đích lãnh đạo - quản lý. Mỗi cán bộ lãnh đạo phải có phương hướng, biện pháp để tu dưỡng, rèn luyện, giữ gìn và nâng cao uy tín của mình; thường xuyên tự giác tu dưỡng rèn luyện, bồi dưỡng phẩm chất và năng lực, có thái độ nghiêm khắc với bản thân, đề cao tính tự chủ, tự kiềm chế, tự điều chỉnh, tự phê bình và phê bình, kết hợp với lắng nghe ý kiến đóng góp của nhân dân để chỉnh đốn kịp thời.
Ba là, các cấp ủy đảng, các cơ quan, đơn vị cần tạo điều kiện để cán bộ lãnh đạo phát huy hết phẩm chất, năng lực của mình, quan tâm củng cố và nâng cao uy tín của người cán bộ lãnh đạo; góp phần giữ vững và nâng cao uy tín thực của người cán bộ lãnh đạo, đồng thời khắc phục những hiện tượng tạo uy tín giả.
Bốn là, thường xuyên kiểm tra, giám sát uy tín của đội ngũ cán bộ lãnh đạo bằng cách lấy phiếu tín nhiệm của tổ chức, ý kiến đóng góp của cán bộ cấp dưới, của nhân dân một cách nghiêm túc và trung thực. Kiên quyết xử lý những cán bộ vi phạm về phẩm chất, thiếu tinh thần trách nhiệm trong công tác, quan liêu, sách nhiễu nhân dân. Kịp thời thay thế cán bộ yếu kém về phẩm chất, năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ, giảm sút uy tín.
Năm là, tổ chức thực hiện nghiêm túc tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI và tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Thực hiện các nhóm giải pháp cấp bách về xây dựng, chỉnh đốn Đảng đi đôi với việc tăng cường giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho cán bộ. Có quy chế để từng cán bộ, công chức, nhất là cán bộ lãnh đạo - quản lý các cấp kiểm điểm hoạt động công tác thường xuyên./.
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 5, tr. 269
(2) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 5, tr. 240
(3) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 5, tr. 54
(4) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 6, tr. 46
(5) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 6, tr. 190
(6) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 2, tr. 260
(7) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 4, tr. 47 - 48
(8) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 4, tr. 56
(9) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 10, tr. 578
(10) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 5, tr. 552
(11) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đai biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.173
(12) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đai biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 292 - 293
Nguyễn Thị Bích Ngọc
Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng
Theo http://tuyengiao.vn/
Huyền Trang (st)