1. Vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lại đặc biệt quan tâm tới một nền lập hiến ở Việt Nam?

Để đi tới xác lập một hệ thống quan điểm về nền lập hiến Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trải qua một quá trình hoạt động cách mạng khoảng 35 năm trong và ngoài nước hết sức sôi nổi, phong phú. Đọc những bài viết của Hồ Chí Minh về lịch sử trước năm 1946, chúng ta có thể khẳng định rằng Người đã biết tới kiểu nhà nước phong kiến Việt Nam với những bộ sử, bộ luật nổi tiếng như Đại Việt sử ký toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí… Hình thư (đời Lý), Quốc triều hình luật (đời Trần), bộ luật Hồng Đức (đời Lê). Chắc chắn Người đã biết tới tư tưởng về một nhà nước thân dân thời phong kiến hưng thịnh, cũng như những tư tưởng tiến bộ của Nho giáo về Nhà nước.

Ba mươi năm hoạt động ở nước ngoài, Hồ Chí Minh có nhiều điều kiện để khám phá kiểu nhà nước tư sản phương Tây như Mỹ, Pháp, mô hình nhà nước ra đời từ thành quả của các cuộc cách mạng tư sản. Người cũng dành nhiều thời gian để nghiên cứu mô hình Nhà nước Xôviết, kiểu nhà nước ra đời từ thành quả của cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới, mà theo Người, đó là cuộc cách mạng thành công đến nơi, triệt để.

Trong hành trang trên đường trở về Tổ quốc sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, Hồ Chí Minh không chỉ nung nấu quyết định thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, mà Người còn mang theo một khát vọng xây dựng một nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hợp với hoàn cảnh nước ta. Tuy nhiên, do nhiều lý do khác nhau, để thực sự có được một Hiến pháp rất Việt Nam năm 1946, tư tưởng Hồ Chí Minh về một nền lập hiến phải trải qua một quá trình hình thành và phát triển gắn chặt với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Khởi đầu của quá trình đó là bản Yêu sách của nhân dân An Nam và sau đó là Việt Nam yêu cầu ca. Các nhà Hồ Chí Minh học, sử học có lý khi mô tả và đánh giá sự kiện này dưới cái nhìn tư tưởng lập hiến của Hồ Chí Minh. Tuy chưa thể có được những quan điểm “lý tính” về một nền lập hiến, nhưng những khát vọng của Người về quyền con người, quyền dân tộc, đặc biệt những trăn trở về “thần linh pháp quyền” là những hiển nhiên không ai có thể phủ nhận. Điều cần nhấn mạnh là Hồ Chí Minh đã sớm có tầm nhìn về tầm quan trọng của lập hiến khi Người chưa phải là một người cộng sản. Tư tưởng đó trở thành nỗi trăn trở lớn của Người trong quá trình tổ chức lực lượng, mở lớp huấn luyện, chuẩn bị mọi mặt cho sự ra đời của Đảng. Trong các lớp huấn luyện ở Quảng Châu, Người đã truyền đạt tư tưởng về một “nhà nước của số đông, quyền giao cho dân chúng số nhiều” cho các học viên. Khái niệm “số đông” đó, đến khi Đảng ra đời, được thể hiện ở mệnh đề “Chính phủ công nông binh”. Đọc những dòng này trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng và một thời gian ngắn sau đó là sự ra đời của Xôviết Nghệ Tĩnh, người ta nhận ra rằng đó vẫn là mô hình Nhà nước Xôviết. Chúng ta hiểu điều đó vì những năm ba mươi, sau khi Lênin từ trần, tình hình cách mạng thế giới nghiêng về khuynh tả. Ngay sau khi về nước, với việc thành lập Mặt trận Việt Minh, chủ trì Hội nghị Trung ương 8, triệu tập Đại hội quốc dân, tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước được xác lập một cách khá rõ ràng, bài bản. Hội nghị Trung ương 8, trên cơ sở khẳng định cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp “dân tộc giải phóng” và đó là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng, đã chủ trương “không nên nói công nông liên hiệp và lập chính quyền Xôviết mà phải nói toàn thể nhân dân liên hợp và lập chính phủ dân chủ cộng hoà”[1]. Chương trình Mặt trận Việt Minh ghi rõ: “Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật sẽ thành lập một chính phủ nhân dân của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà lấy lá cờ đỏ ngôi sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc. Chính phủ ấy do quốc dân đại hội cử ra”[2]. Cuối năm 1944, tư tưởng về một chính phủ đại biểu cho sự chân thành đoàn kết và hành động nhất trí của toàn dân đã được Hồ Chí Minh nêu trong “Thư gửi đồng bào toàn quốc”. Tất cả những trăn trở nêu trên được kết tinh trong “Đại hội quốc dân Tân Trào”, mà nổi bật, như vị Bộ trưởng tư pháp đầu tiên của nước ta-cụ Vũ Đình Hoè- khẳng định, thì Quốc dân Đại hội Tân Trào là Quốc hội lâm thời của nước ta, là tiền thân của Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Và Chương trình 44 điểm, tức như “Hiến pháp lâm thời” hoặc tiền thân của Hiến pháp 1946. Theo cụ Vũ Đình Hoè: “Không phải chỉ đến khi Quốc hội chính thức ra đời sau Tổng tuyển cử (ngày 6-1-1946), mới xuất hiện chức năng lập pháp. Quốc dân Đại hội Tân Trào (tiền thân của Quốc Hội) đã bắt đầu làm “luật” rồi, tuy mới là “luật lâm thời”. Đạo luật chính thức đầu tiên, đạo luật vĩ đại, mang nội dung chính trị pháp lý cao nhất là Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945. Đạo luật này còn cơ bản hơn cả Hiến Pháp. Toàn thể thành viên của Chính phủ lâm thời đã ký tên vào đó. Nó là nền tảng của Hiến pháp 1946, là “Vương miện dát kim cương” trên đầu Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”[3].

Muốn hiểu nền lập hiến Việt Nam, phải nhận thức quá trình thoát thai từ thực tiễn máu lửa chiến đấu của cả khối 20 triệu đồng bào. Sau 80 năm mong đợi, chịu đựng biết bao hy sinh, gian khổ, rồi năm năm thai nghén, mang nặng đẻ đau dẫn tới Đại hội quốc dân Tân Trào.

Sự kiện Hồ Chí Minh đọc “Tuyên ngôn Độc lập”, nhìn dưới góc độ lập hiến, trước hết cần coi đây là một tư tưởng quan trọng về một nhà nước hợp hiến. Sự khai sinh của Nhà nước Việt Nam mới không chỉ khẳng định tính hợp pháp, hợp hiến mà còn cho thấy một văn bản có tính lập hiến cao. Một ngày sau đó, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ”. Chưa đầy nửa tháng sau, ngày 17-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh ấn định thể lệ Tổng tuyển cử. Ba ngày sau, ngày 20-9-1945, Người ký Sắc lệnh 34 thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà để chuẩn bị trình Quốc hội. Đây là những văn bản có tính chất lập pháp đầu tiên để đến khi toàn dân bầu ra Quốc hội chính thức và Quốc hội bầu ra Chính phủ chính thức thì công tác lập pháp càng được đẩy mạnh.

2. Tư tưởng về nền lập hiến ở Việt Nam như thế nào?

Theo cụ Vũ Đình Hoè thì Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận viết “Lời nói đầu” của Hiến pháp 1946. “Lời nói đầu” thể hiện linh hồn của Hiến pháp, đó là:

- “Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo;

- Đảm bảo các quyền tự do dân chủ,

- Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân”.

Hiến pháp phải đặt nền tảng cho một chế độ pháp quyền mà là pháp quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, chế độ mới ra đời từ thành quả vĩ đại của nhân dân Việt Nam sau tám mươi năm tranh đấu thoát khỏi vòng áp bức của chính sách thực dân và gạt bỏ chế độ vua quan.

Trên nền lịch sử dân tộc, một Hiến pháp của nước Việt Nam độc lập và thống nhất, tiến bước trên đường vinh quang và hạnh phúc, hoà nhịp bước cùng trào lưu tiến bộ của thế giới và ý nguyện hoà bình của nhân loại đã được xác lập.

Về mặt Chính thể, Hiến pháp xác định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà.

Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.

Chính thể không chỉ là chế độ chính trị tiến bộ mà còn là sự thống nhất về lãnh thổ Trung Nam Bắc không thể phân chia.

Lần đầu tiên Hiến pháp đã xác lập một hệ thống những nội dung về quyền và nghĩa vụ công dân, là những nguyên tắc hiến định (Chương II, có ba mục A, B, C). Nghĩa vụ gồm có “bảo vệ Tổ quốc, tôn trọng Hiến pháp, tuân theo pháp luật, nghĩa vụ phải đi lính”. Quyền lợi (từ Điều 6 đến Điều 16): “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hoá” (Điều 6). “Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình” (Điều 7). “Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để chóng tiến kịp trình độ chung” (Điều 8). “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” (Điều 9). “Công dân Việt Nam có quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài” (Điều 10). “Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm” (Điều 12). Các Điều 13, 14, 15, 16 bàn đến quyền của giới trí thức và lao động chân tay; về sơ học cưỡng bách, trường tư được mở tự do…Cũng liên quan tớí quyền lợi, nhưng thuộc lĩnh vực bầu cử, bãi miễn và phúc quyết, được đề cập từ Điều 17 đến Điều 21. Trong Mục này, đáng chú ý: “Nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình bầu ra” (Điều 20). “Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia” (Điều21).

Về tổ chức bộ máy, với trục tư duy xuyên suốt coi Hiến pháp là công cụ màu nhiệm để xây dựng, củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm giữ nước, xây dựng đất nước vì độc lập, tự do, hạnh phúc cho toàn dân, Hiến pháp 1946 xác định cơ cấu tổ chức quyền lực nhà nước để tăng cường hiệu quả quản lý và điều hành xã hội. Hiến pháp xác định: “Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà” (Điều 22). “Nghị viện đặt ra các pháp luật (tức là quyền lập pháp), biểu quyết ngân sách, những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết, khi Nghị viện không họp, Ban Thường vụ có quyền biểu quyết những dự án sắc luật của Chính phủ”…

Chính phủ trong tổ chức bộ máy, Hiến pháp 1946 khẳng định: “Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà” (Điều 43). “Chính phủ gồm có Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Phó Chủ tịch và Nội các. Nội các có Thủ tướng, các Bộ trưởng, Thứ trưởng. Có thể có phó Thủ tướng” (Điều 44).

Về bộ máy hành chính địa phương, Hiến pháp 1946 xác định có ba bộ: Bắc, Trung, Nam. Mỗi bộ chia thành tỉnh, mỗi tỉnh chia thành huyện, mỗi huyện chia thành xã. Ở tỉnh, thành phố, thị xã và xã có Hội đồng nhân dân do đầu phiếu phổ thông và trực tiếp bầu ra. Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố, thị xã hay xã cử ra Uỷ ban hành chính. Hội đồng nhân dân quyết nghị về những vấn đề thuộc địa phương mình. Những nghị quyết ấy không được trái với chỉ thị của các cấp trên.

Về cơ quan tư pháp, Hiến pháp 1946 xác định có Toà án tối cao, các toà án phúc thẩm, các toà án đệ nhị cấp và sơ cấp (Điều 63). Thẩm phán đều do Chính phủ bổ nhiệm.

Tóm lại, Hiến pháp 1946 đã xác định chính thể, tổ chức bộ máy nhà nước, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Nó không chỉ phù hợp và đúng đắn trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, mà còn có giá trị bền vững và ý nghĩa sâu xa tận hôm nay. Tinh thần và lõi cốt của Hiến pháp 1946 phản ánh nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân (mà Nghị viện nhân dân có quyền cao nhất - không phải duy nhất và tất cả); dân là chủ và dân làm chủ. Dân có quyền bãi miễn những đại biểu mình bầu ra. Ngược lại đại biểu do dân bầu ra - kể cả Chủ tịch nước - thì phải xác định  là do dân uỷ thác thì phải gắng sức làm. Bao giờ đồng bào cho lui thì phải vui lòng. Chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương đều do dân cử. Tiếp cận theo quan điểm của cụ Vũ Đình Hoè thì lý do cơ bản để Ban soạn thảo Điều lệ Tổng tuyển cử thảo ra được những điều khoản chặt chẽ, sắc bén là nhờ tư tưởng chủ đạo “Nhà nước toàn dân, Quốc hội toàn dân, Chính phủ toàn dân và cả Đảng cũng là Đảng toàn dân”.

3. Từ khi hoà bình lập lại, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng. Cách mạng Việt Nam chuyển sang một hình thế mới. Trong giai đoạn mới của cách mạng, năm 1959 Quốc hội sửa đổi Hiến pháp 1946 cho thích hợp với tình hình và nhiệm vụ mới. “Hiến pháp mới ghi rõ những thắng lợi cách mạng to lớn đã giành được trong thời gian qua và nêu rõ mục tiêu phấn đấu của nhân dân ta trong giai đoạn mới” (Lời nói đầu). Như vậy, cả Hiến pháp 1946 và 1959 đều nói đến cả hiện tại và tương lai (gần và xa). So với Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 có nhiều điểm khẳng định lại Hiến pháp 1946, nhưng lại có giá trị lâu dài cho đến hôm nay. Chẳng hạn, khẳng định Hiến pháp thật sự dân chủ, là sức mạnh động viên nhân dân cả nước phấn khởi tiến lên giành những thắng lợi mới. Hiến pháp không chỉ quy định quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, mà còn quy định trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan Nhà nước, nhằm phát huy sức sáng tạo to lớn của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hiến pháp mới nhằm mục tiêu cao cả là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân. Hiến pháp 1959 cũng nhằm tiếp tục khơi dậy và phát huy hơn nữa những truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, một khối Bắc Nam thống nhất từ Lạng Sơn đến Cà Mau không thể chia cắt, như tinh thần yêu nước, đoàn kết, chí khí đấu tranh và nhiệt tình lao động… Mục tiêu lâu dài mà Hiến pháp xác định là “xây dựng thành công một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào công cuộc bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Châu Á và thế giới”. Tất cả những điều đó được quy định trong chế độ kinh tế, chính trị và xã hội của nước ta, quan hệ bình đẳng giúp nhau giữa các dân tộc trong nước.

Điểm khác cơ bản xuất phát từ tình hình và nhiệm vụ mới, đó là miền Bắc đang trong giai đoạn tiến dần lên chủ nghĩa xã hội và tiếp tục đấu tranh để hoà bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. Những điểm khác này không chỉ phù hợp với tình hình lúc bấy giờ đang tập trung cải tạo nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà còn định hướng giá trị trong tình hình hiện nay.

4. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng của Người về nền lập hiến Việt Nam được phản ánh trong Hiến pháp 1946 và 1959, cũng như trong toàn bộ cuộc đời cách mạng của Người nói riêng, vấn đề chúng ta cần quan tâm là giá trị lý luận và thực tiễn trong công cuộc đổi mới hiện nay như thế nào? Chỉ có trên cơ sở nhận thức đầy đủ, vận dụng sáng tạo, biết phát triển tư tưởng và làm theo tấm gương Hồ Chí Minh, gắn với thực tiễn (Việt Nam và thế giới) hiện nay, thì mới bảo vệ được tư tưởng Hồ Chí Minh và đưa sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc tới thắng lợi.

Về giá trị lý luận, nghiên cứu Hiến pháp 1992 thấy có một số nội dung trở lại với tinh thần của Hiến pháp 1946 và 1959, chứng tỏ giá trị bền vững của Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959. Trước hết, đó là giá trị nhân văn, nói như cụ Vũ Đình Hoè, là pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh. Hiến pháp và pháp luật trong tư tưởng Hồ Chí Minh là tất cả vì con người. Thứ hai là giá trị khoa học. Cơ sở của Hiến pháp 1946 và 1959 là chắt lọc quan điểm lập hiến của Anh, Pháp, Mỹ, Nga, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam. Thứ ba là tính chiến đấu (giá trị cách mạng). Hiến pháp và pháp luật trong tư tưởng Hồ Chí Minh là xoá cái ác và trau dồi cái thiện, chống lại tất cả những hành vi của con người đi ngược lại lợi ích của dân tộc và nhân loại tiến bộ.

Về giá trị thực tiễn và định hướng phát huy giá trị thực tiễn trong tình hình hiện nay cần chú trọng xây dựng con người, tăng cường giáo dục văn hoá làm người, trong đó chú trọng giáo dục chữ tâm, theo lời dạy của Bác Hồ: “cách mạng tiên cách tâm”. Chú trọng giáo dục tính liêm, sỉ và tinh thần trách nhiệm của người có chức có quyền và gắn chặt với điều đó là văn hoá từ chức. Đọc kỹ Hiến pháp 1946 và 1959 và nghiên cứu quá trình Hồ Chí Minh chỉ đạo thực hiện hiến pháp và pháp luật thấy cần thiết phải kết hợp chặt chẽ “đức trị” với “pháp trị”. Thực tiễn cho thấy chống tham nhũng không thể chỉ bằng giáo dục đạo đức, tư tưởng và nêu gương, mà phải bằng tính khoa học, tính nghiêm minh của pháp luật và bộ máy. Mọi tù mù đều dẫn tới tiêu cực. Bài học y án tử hình Trần Dụ Châu được nhân dân đồng tình, không chỉ cho thấy sự nghiêm minh của phép nước, mà còn thể hiện sự bình đẳng của công dân trước pháp luật. Kinh nghiệm thực tiễn cũng cho thấy phát huy thật sự dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thật sự trong dân chủ, trong tu dưỡng đạo đức, xây dựng nhà nước… như là một thuộc tính cơ bản của chế độ ta theo tư tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh, nó xa lạ với thói giả dối, hình thức.

Nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và phẩm chất đạo đức của Đảng, của cán bộ đảng viên và mỗi công dân là những nhân tố quan trọng, không thể thiếu trong quá trình vận hành bộ máy của nhà nước pháp quyền, trong đó hệ thống chính trị (bao gồm cả cán bộ công chức) được coi là tấm gương của xã hội. Gương sáng thì dân soi, gương mờ thì dân quay lưng.

Tóm lại, tuy nghiên cứu hiến pháp và pháp luật, nhưng vấn đề cần nhận thức không chỉ bó hẹp trong đó, mà nó liên quan tới cả lĩnh vực văn hoá chính trị[4] , văn hoá lãnh đạo - quản lý[5] trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nền lập hiến Việt Nam là một bộ phận cấu thành trong văn hoá chính trị Hồ Chí Minh./.

PGS. TS. Bùi Đình Phong

Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh

Theo http://www.na.gov.vn

Thu Hiền (st)

[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr. 127.

[2]. Dẫn trên, tr.150.

[3]. Báo Nhân Dân cuối tuần, ngày 8-1-2006.

[4]. Xem: Bùi Đình Phong: “Văn hoá chính trị Hồ Chí Minh” trong Tạp chí Khoa học chính trị, số 5-2006.

[5]. Xem: Bùi Đình Phong: “Văn hoá lãnh đạo,quản lý trong tư tưởng Hồ Chí Minh”, trong Tạp chí công tác tư tưởng lý luận của Ban tư tưởng- Văn hoá trung ương, số 8-2006.

Bài viết khác: