Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, Người dành cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, vì độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Trong công tác xây dựng đảng, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác kiểm tra và giám sát, bởi theo Người: “Có kiểm tra mới huy động được tinh thần tích cực và lực lượng to tát của nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời”(1).

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiên liệu về sự vận động của Đảng trong quá trình biển đổi, phát triển của tình hình cách mạng và chỉ rõ công tác kiểm tra có vai trò, vị trí rất quan trọng đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự nghiệp đấu tranh cách mạng của dân tộc. Người cho rằng: Kiểm tra là công cụ thiết yếu để làm trong sạch bộ máy Đảng và Nhà nước, là biện pháp hữu hiệu trong việc đấu tranh thủ tiêu mọi thiếu sót, khuyết điểm trong cơ quan Đảng và Nhà nước. Theo Người, lãnh đạo mà không kiểm tra tức là không lãnh đạo, là lãnh đạo quan liêu. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết năm 1947, Người đã khẳng định: “Bên cạnh sự tự giác thực hiện nhiệm vụ của các tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, các cấp ủy đảng phải tăng cường công tác kiểm tra”“không phải ngày nào cũng kiểm tra nhưng thường thường kiểm tra để giúp họ rút kinh nghiệm sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm”(2). Ngay sau khi Ban Kiểm tra Trung ương được thành lập vào tháng 10-1948, trên Báo Sự thật số 103 ra ngày 30-11-1948, với bút danh X.Y.Z, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài “Một việc mà các cơ quan lãnh đạo cần thực hành ngay”. Người chỉ rõ: “Chín phần mười khuyết điểm trong công việc của chúng ta là vì thiếu sự kiểm tra”“Nếu tổ chức sự kiểm tra được chu đáo, thì công việc của chúng ta nhất định tiến bộ gấp mười gấp trăm”.

Công tác kiểm tra theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta bao gồm hai mặt chủ yếu. Đó là kiểm tra việc chấp hành đường lối, chính sách của Đảng và kiểm tra việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng, giữ gìn kỷ luật trong Đảng. Cũng trong bài viết “Một việc mà các cơ quan lãnh đạo cần thực hành ngay”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Chính sách đúng là nguồn gốc của thắng lợi… Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”.

 Xuất phát từ thực tiễn khách quan, trước yêu cầu, nhiệm vụ trong từng giai đoạn cách mạng, nhất là khi trở thành Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo cả hệ thống chính trị trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bổ sung, phát triển, từng bước hoàn thiện quan điểm, nguyên tắc, phương pháp công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên theo dõi sát sao công tác kiểm tra Đảng, quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra, Người coi đây là lực lượng nòng cốt giúp các cấp ủy hướng dẫn và thực hành công tác kiểm tra. Người yêu cầu đội ngũ làm công tác kiểm tra phải có phẩm chất, đạo đức, có năng lực chuyên môn về công tác kiểm ra. Trước hết, các ủy ban và cán bộ kiểm tra phải học tập thấm nhuần đường lối, quan điểm của Đảng, vì có hiểu biết sâu sắc đường lối, chính sách của Đảng mới kiểm tra được việc chấp hành của đảng viên và tổ chức Đảng.

Ngày 29-7-1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và nói chuyện tại Hội nghị tổng kết công tác kiểm tra của Đảng, tổ chức tại Hà Nội. Mở đầu bài nói chuyện, Người nhấn mạnh vai trò của công tác kiểm tra: “Kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên và cán bộ làm trọn nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương mẫu tốt cho nhân dân. Do đó mà góp phần vào việc củng cố đảng về tư tưởng, về tổ chức”(3). Quan điểm này của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được thể hiện xuyên suốt trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, trong các văn bản pháp luật của Nhà nước từ năm 1945 đến nay. Mặc dù ở mỗi giai đoạn lịch sử đều có những sự điều chỉnh về chức năng, nhiệm vụ cho phù hợp, nhưng công tác kiểm tra Đảng luôn luôn có một vai trò quan trọng trong công tác phòng, chống bệnh quan liêu, nạn tham nhũng, lãng phí và các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động quản lý nhà nước, cũng như trong hoạt động thi hành nhiệm vụ, quyền hạn được giao của các bộ, công chức, nhân viên nhà nước.

Tại Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nêu rõ những ưu điểm và khuyết điểm của công tác kiểm tra: “Ủy ban kiểm tra các cấp cũng thấy rõ hơn trách nhiệm của mình, đã cố gắng trong việc giúp các cấp uỷ giữ gìn kỷ luật của Đảng và đóng góp vào công tác xây dựng đảng. Đó là những ưu điểm của các cán bộ kiểm tra. Nhưng vẫn còn những nhược điểm cần phải khắc phục. Ví dụ:

- Công tác kiểm tra còn bị động và nặng về giải quyết những vụ vi phạm kỷ luật trước mắt, chưa chủ động về việc giải quyết toàn diện vấn đề giữ gìn kỷ luật và chấp hành Điều lệ của Đảng, để nâng cao ý thức của đảng viên và cán bộ một cách cǎn bản và lâu dài.

- Việc xử lý kỷ luật, xét thư khiếu nại làm còn chậm chạp. Kiểm tra đảng viên phạm sai lầm còn chưa chủ động. Việc hướng dẫn vận dụng phương châm kỷ luật chưa được chặt chẽ, để cho kỷ luật đảng có chỗ bị buông lỏng, vì vậy mà thiếu tác dụng giáo dục và ngǎn ngừa đảng viên khỏi phạm kỷ luật”(4).

Có thể thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến tính chủ động trong công tác thanh tra. Người thường nói: Việc kiểm tra cho chu đáo thì cũng như có ngọn đèn pha. Bao nhiêu tình hình, bao nhiêu ưu điểm và khuyết điểm, bao nhiêu cán bộ, chúng ta đều thấy rõ. Như vậy, có thể thấy kiểm tra đảng theo quan điểm của Người có tác dụng rất lớn trong việc phòng ngừa tiêu cực, phát huy những nhân tố tích cực, có mục đích thúc đẩy và giáo dục đảng viên, cán bộ làm tròn nhiệm vụ đối với Đảng, Nhà nước, làm gương mẫu cho nhân dân. Do đó, mà góp phần vào việc củng cố Đảng về tư tưởng và tổ chức. Tuy nhiên, Người cũng đặc biệt phê phán những cán bộ trong cơ quan Đảng và Nhà nước, những cơ quan lãnh đạo, quản lý các cấp không sát thực tế, không theo dõi, giáo dục cán bộ, gần gũi quần chúng; đối với công việc thì trọng hình thức mà không xem xét khắp mọi mặt, không vào sâu vấn đề, chỉ khai hội, viết chỉ thị mà không kiểm tra đến nơi đến chốn.

Là lực lượng nòng cốt giúp các cấp ủy hướng dẫn và thực hành công tác kiểm tra cho nên yêu cầu đối với người cán bộ kiểm tra về phẩm chất, năng lực, trình độ, kinh nghiệm và uy tín là rất cao. Ở cuối bài nói chuyện, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm căn dặn: “Các uỷ ban và cán bộ kiểm tra phải học tập và thấm nhuần đường lối, quan điểm của Đảng, phải luôn luôn chú ý nâng cao khả năng chuyên môn, phải cố gắng công tác, phải trau dồi đạo đức cách mạng. Đặc biệt là phải nâng cao ý thức tổ chức và kỷ luật, phải thật thà phê bình và tự phê bình để làm gương mẫu trong việc chấp hành kỷ luật của Đảng. Phải chí công vô tư, không thiên vị, không thành kiến. Như thế thì mới làm tốt được công tác kiểm tra”(5). Theo tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quá trình kiểm tra, giám sát phải gắn với phê bình và tự phê bình để giáo dục, thuyết phục, uốn nắn đảng viên, cán bộ, định hướng công tác lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng, tạo điều kiện phát huy dân chủ trong Đảng, giữ vững nguyên tắc và chế độ sinh hoạt đảng, làm cho Đảng ta thực sự trong sạch vững mạnh, đủ sức lãnh đạo hoàn thành sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Công tác kiểm tra, giám sát gắn với phê bình và tự phê bình là nhằm làm cho tổ chức cơ sở đảng vững mạnh, cán bộ, đảng viên luôn giữ vững định hướng chính trị, nhận thức tư tưởng, trau dồi phẩm chất đạo đức trong sáng. Việc kết hợp chặt chẽ giữa công tác kiểm tra, giám sát với tự phê bình và phê bình là một giải pháp khoa học nhằm tăng cường sức mạnh và nâng cao năng lực lãnh đạo của các tổ chức đảng, chủ động cảnh báo, phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm và giải quyết dứt điểm các vụ việc trên cơ sở nguyên tắc Điều lệ Đảng.

Bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị tổng kết công tác kiểm tra của Đảng năm 1964 đã tròn nửa thế kỷ nhưng những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo của Người vẫn còn nguyên giá trị, đã, đang và mãi là bài học lớn và công tác kiểm tra Đảng, phục vụ thiết thực cho sự lãnh đạo của Đảng và lãnh đạo của Nhà nước đối với đời sống xã hội.

Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh, Ðảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình phát triển luôn chú trọng công tác kiểm tra, giám sát của Ðảng. Trong mọi thời kỳ của cách mạng, dù chiến tranh hay hòa bình, khủng hoảng kinh tế hay phát triển, khó khăn hay thuận lợi, kể cả những thời điểm gay go, ác liệt nhất, đội ngũ các thế hệ cán bộ kiểm tra luôn tuyệt đối trung thành và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vượt qua gian khổ, khắc phục khó khăn, phấn đấu hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Ðặc biệt trong gần 30 năm đầu của thời kỳ đổi mới, công tác kiểm tra của Ðảng đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ đường lối, quan điểm, các nguyên tắc của Ðảng; thúc đẩy thực hiện các nhiệm vụ chính trị; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng; góp phần tăng cường, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Ðảng. Tuy nhiên, cùng với những ưu điểm của đội ngũ cán bộ, đảng viên, hiện nay "Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu chưa được ngăn chặn, đẩy lùi"(6). Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu diễn biến hòa bình với phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt để chống phá Ðảng ta và chế độ ta. Bởi vậy, công tác kiểm tra và giám sát của Đảng ngày càng phải được đẩy mạnh. Ủy ban kiểm tra và đội ngũ cán bộ đảm trách công tác kiểm tra, giám sát phải đóng vai trò nòng cốt trong công tác tham mưu nhằm nâng cao hiệu quả, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Điều này đòi hỏi cần xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất và năng lực, thực sự xứng đáng là người lãnh đạo, là đầy tớ thật trung thành của nhân dân, theo đúng lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những lời căn dặn của Người còn có giá trị lâu dài đối với nhiều thế hệ cách mạng, để Đảng ta không ngừng rèn luyện, đấu tranh, và ngày càng xứng đáng với vai trò to lớn mà lịch sử và nhân dân đã giao phó.

Chú thích:

(1). Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 520-521.

(2). Sửa đổi lối làm việc, t. 5. tr. 276.

(3) (4) (5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.11, tr.300-301.

(6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khoá X, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2009, tr.171.

(7) Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Chương VII, điều 30.

Nguyễn Minh Đức/Phòng TT-GD

Theo ditichhochiminhphuchutich.gov.vn
Minh Thu (st)

Bài viết khác: