Trong tư tưởng Hồ Chí Minh và qua hoạt động của Người, báo chí cách mạng có một vị thế xã hội rất quan trọng. Trong đó, cán bộ báo chí giữ vai trò quyết định. Nhưng, khi nói đến cán bộ báo chí, Bác Hồ cũng đồng thời nói tới đạo đức của người làm báo. Đó là nền tảng của các phẩm chất nghề nghiệp báo chí.
Bác Hồ với các phóng viên báo, đài. Ảnh : Tư liệu
Cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho các thế hệ người Việt Nam nhiều di sản quý báu. Mỗi người dân Việt Nam đều gọi Hồ Chí Minh bằng tên gọi thân thiết, gần gũi với lòng biết ơn và kính trọng: Bác Hồ.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh và qua hoạt động của Người, báo chí cách mạng có một vị thế xã hội rất quan trọng. Trong đó, cán bộ báo chí giữ vai trò quyết định. Nhưng khi nói đến cán bộ báo chí, Bác Hồ cũng đồng thời nói tới đạo đức của người làm báo. Đó là nền tảng của các phẩm chất nghề nghiệp báo chí.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt vấn đề rằng, báo chí không chỉ “để tuyên truyền giải thích đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ”, mà còn là vũ khí tự phê bình và phê bình rất lợi hại. Bác Hồ kính yêu của chúng ta không chỉ là nhà chính trị, vị lãnh tụ thiên tài của Đảng Cộng sản và dân tộc Việt Nam, không chỉ là danh nhân văn hóa thế kỷ XX, mà trước hết, Người là một nhà báo đích thực, vĩ đại. Trong một chuỗi hoạt động cách mạng bôn ba, nghề nghiệp Bác Hồ khai rất đơn giản: Làm báo. Trong tư tưởng của Người, làm báo đồng nghĩa với làm cách mạng. Do miệt mài học tập từ những bước đi đầu tiên, tập viết những dòng tin cho đến khi thành thạo và tinh tường trong công việc viết báo, cho nên Hồ Chí Minh đã để lại một di sản về “cách viết”.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, “viết” phải gắn liền với xác định mục đích, xác định đối tượng tác động. Cho nên, Người đã chỉ dạy “Phải đặt câu hỏi: Viết cho ai? Viết cho công – nông – binh. Viết để làm gì? Để giáo dục, giải thích cổ động, phê bình, để phục vụ quần chúng…, để nêu cái hay cái tốt của nhân dân ta… Nhưng phê bình phải đúng đắn. Nêu cái hay cái tốt thì phải có chừng mực…”, đồng thời muốn viết hay thì phải có tài liệu. Phải nghe, hỏi, thấy, xem và ghi chép cẩn thận, tức là một chuỗi những kỹ năng nghề nghiệp trong lao động nhà báo. Trong quan niệm của Người, “viết như thế nào” là câu hỏi sau cùng, nhưng không phải vì thế mà việc viết không quan trọng. Bởi vì nếu “viết” không hay thì người ta không đọc, không xem, không nghe; tức là không để làm gì, vô tác dụng, gây ra lãng phí xã hội. Đó chính là phong cách báo chí Hồ Chí Minh.
Năm 1951, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta đang ở giai đoạn khó khăn ác liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài “Tự phê bình” (Báo Nhân Dân ngày 20/5/1951). Bác Hồ viết: Dao có mài, mới sắc. Vàng có thui, mới trong. Nước có lọc, mới sạch. Người có tự phê bình, mới tiến bộ. Đảng cũng thế.
Cách ví von giản dị, lôgíc hiển nhiên đã biểu hiện tính khách quan, cần thiết của việc tự phê bình. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu vấn đề và chính Bác tự giải đáp: “Tự phê bình là gì? Là thật thà nhận, công khai nhận trước mắt mọi người những khuyết điểm của mình để tìm cách sửa chữa”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Điều đó nói thì dễ, nhưng làm thì khó. Khó là vì người ta hay có lòng tự ái. Thừa nhận cái sai, cái dốt, cái kém của mình thì sợ mất thể diện, mất uy tín, mất địa vị”.
Tự phê bình là cuộc cách mạng diễn ra ngay trong mỗi con người chúng ta, là đấu tranh với chính bản thân mình. Nhưng, phải làm việc đó trước mắt tập thể, trước mọi người để mọi người cùng rút kinh nghiệm. Bởi vì “Thật thà tự phê bình chẳng những giúp cho mình sửa chữa, giúp cho mình tiến bộ mà còn giúp cho người khác biết để mà tránh”. Hồ Chí Minh chống thói qua loa đại khái, tính hình thức trong tự phê bình, chỉ trích người khác, còn ai nêu khuyết điểm của mình đã không cám ơn lại còn khó chịu, trù dập.
Trong bài “Đạo đức cách mạng” đăng trên tạp chí Học tập, số 12 năm 1958, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh từ bỏ chủ nghĩa cá nhân”. Vì “chủ nghĩa cá nhân đẻ ra lắm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí…”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình đã thể hiện thành một trong những phương châm xây dựng Đảng. Nhưng, không chỉ trong sinh hoạt Đảng, mà Hồ Chí Minh luôn đặt vấn đề tự phê bình và phê bình công khai trên báo chí.
Nếu như tự phê bình và phê bình trong nội bộ không có mấy ý kiến phải bàn luận, vì nó như cơm ăn, nước uống, như “rửa mặt hàng ngày” thì vấn đề tự phê bình và phê bình công khai trên báo chí lại lắm ý kiến. Có người cho rằng phê bình công khai là vạch áo cho người xem lưng, cho kẻ thù lợi dụng. Hồ Chí Minh đã kiên quyết chống lại những biểu hiện tư tưởng đó.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, phê bình công khai là “thuốc đắng dã tật”. Người phân tích, có những cán bộ tưởng rằng nếu công khai phê bình những khuyết điểm của mình thì sẽ có hại vì: Kẻ địch sẽ lợi dụng để phản tuyên truyền; Giảm bớt uy tín của đoàn thể và chính quyền; Làm mất thể diện của cán bộ đã phạm khuyết điểm ấy; Chỉ phê bình qua loa ở nội bộ là đủ rồi. Thế là tưởng lầm, thế là ốm mà sợ thuốc… mỗi khi đã phạm đến khuyết điểm thì dù mình muốn bưng bít người ta cũng biết. Người nhấn mạnh, phải nhớ câu tục ngữ “sừng có vạch, vách có tai”… Cán bộ nào không dám công khai thừa nhận khuyết điểm của mình, e sợ lời phê bình của đồng sự và của nhân dân… thì người đó không xứng đáng là cán bộ.
Phê bình công khai có làm “suy giảm bớt uy tín của đoàn thể và chính quyền” không? Chắc chắn là có. Nhưng có “giảm bớt” này là tạm thời để rồi uy tín lại tăng lên, nếu biết thật thà tự phê bình. Còn nếu sợ mà không phê bình thì như Hồ Chí Minh nói “người ốm giấu bệnh”. Mặt khác, trong tư tưởng của Người, tự phê bình và phê bình là việc như cơm “ăn cho khỏi đói”, như “rửa mặt cho khỏi bẩn”. Đó là công việc hàng ngày, hiển nhiên cần thiết, tất yếu như vòng tuần hoàn chu chuyển trong cơ thể con người ta.
Tuy nhiên, tự phê bình và phê bình công khai trên báo chí cũng còn phải chống một khuynh hướng nữa. Đó là khuynh hướng “đao to búa lớn”, có bé xé ra to, hoặc lợi dụng tự phê bình và phê bình để hạ bệ nhau, mạt sát nhau. Bác Hồ cho rằng, đó là kiểu phê bình “không nghiêm chỉnh”, không có tinh thần “phụ trách”, không phải “trị bệnh cứu người”.
Trong kinh tế thị trường, những biểu hiện phức tạp của phê bình công khai còn nguy hiểm hơn. Đó là có lúc, có nơi, do sự chi phối của sức mạnh đồng tiền hay vì động cơ cá nhân mà đổi trắng thay đen, uốn cong ngòi bút và thậm chí có biểu hiện “đâm thuê, chém mướn”. Những biểu hiện này tuy rất ít nhưng gây tác hại nghiêm trọng đến uy tín của báo giới.
Hồ Chí Minh không chỉ đưa ra các yêu cầu cần thiết có tính nguyên tắc cho việc tự phê bình và phê bình công khai trên báo chí, mà còn rất quan tâm đến hiệu quả, cách thức giải quyết các vụ việc do báo chí nêu ra. Khi báo chí nêu ra các vụ việc, Bác yêu cầu xử lý ngay, không đánh trống bỏ dùi hoặc theo kiểu “sống chết mặc bây”. Có lần, “đọc tờ báo Vùng mỏ của tỉnh Quảng Ninh, có đăng bài phê phán một cán bộ xã 27 tuổi bắt mọi người gọi bằng ông. Có một cụ già 60 tuổi có lần quên không gọi ông Chủ tịch xã bằng ông, đã bị khép vào tội coi thường chính quyền, bị viết kiểm điểm, đưa đi dân công”. Đọc bài báo, Hồ Chí Minh đánh dấu nhiều chỗ rồi giao cho văn phòng và yêu cầu kiểm tra, xử lý ngay.
Nếu tư tưởng và phong cách này của Hồ Chí Minh được phát huy thì hiệu quả tác động của báo chí sẽ rất to lớn, các hiện tượng tiêu cực sẽ hạn chế, giảm bớt rất nhiều.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình không chỉ nêu và phân tích khuyết điểm, thiếu sót mà còn một mặt khác, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đó là biểu dương người tốt, việc tốt. Đây là mặt cơ bản, là xu thế chủ yếu trong tự phê bình và phê bình. Bởi theo Hồ Chí Minh, “lấy gương tốt trong quần chúng nhân dân và cán bộ, đảng viên giáo dục lẫn nhau là một phương pháp lấy quần chúng giáo dục quần chúng rất sinh động và có sức thuyết phục rất lớn. Đó cũng là một cách thực hành đường lối quần chúng trong công tác giáo dục”. Trong bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ ba của Hội Nhà báo Việt Nam, Hồ Chí Minh không chỉ nêu ra các quan điểm, tư tưởng với tư cách là đồng nghiệp, “một đồng chí có ít nhiều kinh nghiệm về báo chí”, Người đã “xung phong phê bình các báo”: Bài báo thường dài quá, dây cà ra dây muống; Thường nói một chiều và đôi khi thổi phồng các thành tích, mà ít hoặc không nói đến khó khăn và khuyết điểm của ta. Đưa tin tức hấp tấp, nhiều khi thiếu thận trọng… Khuyết điểm nặng nhất là dùng chữ nước ngoài quá nhiều và nhiều khi dùng không đúng.
Thời gian trôi qua, những tư tưởng của Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình công khai trên báo chí ngày càng tỏa sáng. Việc nghiên cứu một cách có chiều sâu, hệ thống, đặc biệt là việc quán triệt những tư tưởng của Người vào mọi hoạt động của đời sống xã hội đang là đòi hỏi bức xúc, sống động của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Những ý kiến phê bình của Hồ Chí Minh thật chí lý, cho đến nay vẫn có ý nghĩa sống động, cấp thiết. Bởi vì, không chỉ báo chí phê bình các hoạt động mà phê bình ngay chính bản thân báo chí. “Nói một chiều và đôi khi thổi phồng”, “đưa tin hấp tấp, nhiều khi thiếu thận trọng…” trên báo chí hiện nay có cả. Ngay trong giai đoạn cam go của cuộc kháng chiến, Bác Hồ vẫn không sợ nói khuyết điểm và khó khăn của ta, miễn là nói đúng mức, đúng thực tế, và đặc biệt là bệnh “dùng chữ nước ngoài”, cho báo mình có vẻ sang trọng. Không chỉ trên báo chí mà trong xã hội, nhan nhản trên các đường phố, từ tên cơ quan, doanh nghiệp đến các tổ chức, dịch vụ… đâu đâu cũng có tiếng nước ngoài, lại còn viết tắt, người dân thường không thể hiểu được. Đó là căn bệnh sính ngoại, trưởng giả học làm sang. Thậm chí trước diễn đàn có phát thanh, truyền hình trực tiếp, có người đang nói cho người Việt nghe, chốc chốc lại chen vài từ nước ngoài vào như kiểu tiếng Việt không có đủ từ để nói…
PGS. TS. Nguyễn Văn Dững
Theo Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
Đức Lâm (st)