Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân cách là một vấn đề trung tâm trong hệ giá trị về con người. Cuộc đời và sự nghiệp của Người là một tấm gương sáng, biểu tượng sáng ngời về phẩm chất và năng lực của người anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân cách có ý nghĩa to lớn cả lý luận và thực tiễn, là mối quan tâm hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Quan điểm của Người về nhân cách là kết hợp hài hòa truyền thống của dân tộc Việt Nam với tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, đặc biệt là chủ nghĩa nhân đạo của C.Mác, F.Ăng-ghen và V.I.Lê-nin. Những luận giải về nhân cách của Người đến nay đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu và nhận định: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân cách là hệ thống, khoa học, nhân văn và toàn diện nhất. Đó là cách tiếp cận đi từ nhận thức về nhân cách, cấu trúc nhân cách, con đường hoàn thiện nhân cách, đặc biệt là đối với nhân cách của người cán bộ cách mạng.

1. Quan niệm về nhân cách.

Nếu như Mạnh Tử coi nhân cách là tiên thiên, con người sinh ra vốn tính thiện “nhân chi sơ, tính bản thiện” hay Tuân Tử thì ngược lại “nhân chi sơ, tính bản ác”, còn Chủ tịch Hồ Chí Minh lại có cách nhìn khoa học và toàn diện hơn. Theo quan điểm của Người, con người từ khi sinh ra chỉ là một sinh vật, chưa có nhân cách, quá trình đứa trẻ lớn lên và thông qua quá trình xã hội hóa thì nhân cách mới được hình thành và phát triển. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Ngủ thì ai cũng lương thiện, tỉnh dậy sinh ra kẻ dữ hiền”. Quan điểm của Người không thần thánh hóa theo kiểu duy tâm mà coi nhân cách như là một yếu tố động, bởi từ lúc chào đời cho đến giai đoạn trưởng thành thì cá nhân bao giờ cũng chịu sực tác động của một hệ thống các yếu tố xung quanh, đồng thời con người cũng là chủ thể của các hoạt động và giao tiếp. Đối với người cán bộ cũng vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng đến việc tu dưỡng rèn luyện. Do vậy, trong quá trình đó mỗi người cán bộ luôn phải quyết tâm cao, phát huy sức mạnh của ý chí, luôn tự phê bình và phê bình để hoàn thiện bản thân.

2. Cấu trúc nhân cách

Người cán bộ phải có 5 đức tính:

Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí, đồng bào... sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế không ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ uy quyền. Nhưng người đã không ham, không e, không sợ gì thì dù khó khăn đến đâu họ cũng có thể vượt qua.

Nghĩa là ngay thẳng, không tư tâm, không làm việc bậy, không có việc gì phải giấu đoàn thể. Ngoài lợi ích của đoàn thể, không có lợi ích riêng phải lo toan.

Trí là không mù quáng, đầu óc trong sạch sáng suốt, dễ hiểu lý, dễ tìm phương hướng, biết xem người, biết xét việc. Vì vậy mà biết làm việc có lợi tránh việc có hại cho đoàn thể.           

Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc gì phải có gan làm, thấy khuyết điểm phải có gan sửa chữa, cực khổ khó khăn có gan chịu đựng. Có gan chống lại những vinh hoa, phú quý không chính đáng. Nếu cần thì có gan hy sinh cả tính mệnh cho đoàn thể: cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè nhút nhát.            

Liêm là không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung sướng, không ham người tâng bốc mình. Vì vậy, mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa. Chỉ có một cái ham là ham học, ham làm và ham tiến bộ.          

Trong quan niệm về cấu trúc nhân cách, Người nhấn mạnh hai thành tố quan trọng là tài và đức (hồng và chuyên) trong đó đức là gốc của con người, nhất là người cán bộ. Theo Người, cái cốt lõi, nền tảng của nhân cách người cán bộ cách mạng là đạo đức cách mạng. Người chỉ rõ: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì còn làm nổi việc gì”[1]. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là đạo đức tiến bộ, đạo đức cách mạng: “Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải là vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”[2]. Đạo đức mới khác hẳn về chất so với kiểu đạo đức cũ. “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời, đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất đầu ngẩng lên trời”. Đạo đức mới - đạo đức cách mạng, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là quyết tâm suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng, đó là điều chủ chốt nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích cá nhân mình. Hết lòng phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì nhân dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc. Người dạy: “Mỗi đồng chí phải ra sức học tập, rèn luyện, tu dưỡng, củng cố lập trường giai cấp công nhân… phải tuyệt đối chấp hành đường lối chính sách của Đảng và chính phủ… Dù cương vị nào, các đồng chí phải luôn gương mẫu, luôn luôn xứng đáng là người đầy tớ trung thành tận tụy của nhân dân”[3]. Mặt khác, muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ của người cán bộ cách mạng thì nhất thiết phải có năng lực công tác. Quan điểm của Người về vấn đề năng lực luôn có tác dụng định hướng và chỉ đạo việc bồi dưỡng nâng cao năng lực của cán bộ. Theo Người: “Có tài mà không có đức thì vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Do đó, vấn đề năng lực cũng là vấn đề luôn được người quan tâm đặc biệt. Người cán bộ có năng lực là gì? Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh trước hết phải quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm chỉnh quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, có trình độ và năng lực cần thiết để đảm nhiệm trọng trách mà Đảng giao phó.

3. Con đường hình thành và phát triển nhân cách Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luận giải một cách sâu sắc quá trình phát triển nhân cách theo lứa tuổi và đòi hỏi những yêu cầu khác nhau của các đối tượng, người cán cán bộ cách mạng, người tướng, người chính trị viên… thậm chí đối với các em nhỏ, người già. Tự tu dưỡng, rèn luyện. Đây là con đường quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp trong việc hình thành và phát triển, hoàn thiện nhân cách cán bộ, là phát huy nội lực của mỗi người. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra con đường cơ bản cho người cán bộ cách mạng tự vươn lên hoàn thiện mình, đó là phải học tập, rèn luyện bền bỉ suốt đời. Để tu dưỡng, rèn luyện đạt kết quả, đòi hỏi trước hết mỗi cán bộ, chiến sĩ phải nêu cao tinh thần đấu tranh phê bình và tự phê bình. Người dạy: “Trên con đường phát triển cách mạng của mình, Đảng ta, quân đội ta cũng như mỗi đồng chí chúng ta luôn luôn có ưu điểm và không tránh khỏi có khuyết điểm. Chỉ có không ngừng đấu tranh, phê bình và tự phê bình, nhận rõ đúng sai, phát huy cái đúng, khắc phục cái sai mới có thể làm cho mình, cho Đảng, cho cách mạng tiến bộ mãi”[4].

Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên trau dồi phẩm chất cách mạng, đồng thời phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, bài trừ bệnh quan liêu, xa rời quần chúng, phải thực sự là người đầy tớ, là công bộc của nhân dân, Người dạy: “Muốn gột rửa sạch những vết tích xấu xa của xã hội cũ, muốn rèn luyện đạo đức cách mạng, thì chúng ta phải ra sức học tập, tu dưỡng, tự cải tạo để tiến bộ mãi. Nếu không cố gắng để tiến bộ tức là thoái bộ, là lạc hậu”[5]. Muốn tự cải tạo được bản thân để tự mình hoàn thiện nhân cách thì mỗi cán bộ phải tự nhận  thức được những ưu điểm và khiếm khuyết của mình để tự giác, tự xây dựng kế hoạch, đề ra mục tiêu, thời gian sửa chữa, học tập, rèn luyện, tu dưỡng để hoàn thiện nhân cách. Quá trình tự hoàn  thiện, tự giáo dục, tự  rèn luyện nhân cách không phải là công việc tự giác nhất thời mà là quá trình phấn đấu thường xuyên, liên tục, có chủ định.          

Phát huy ý chí. Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao việc phát huy cao độ ý chí của từng cá nhân, khắc phục mọi khó khăn hoàn thành tốt nhiệm vụ. “Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền”. Cuộc đời và sự nghiệp vĩ đại của Người là bài học quý giá để giáo dục cho thế hệ trẻ biết nỗ lực phấn đấu, không ngại khó, ngại khổ. Nếu mỗi cá nhân biết rèn rũa, phát huy ý chí cao độ thì nhất định thành công. Bài học đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết ở bài thơ Nghe tiếng giã gạo: “Gạo đem vào giã bao đau đớn/Gạo giã xong rồi trắng tựa bông/Sống ở trên đời người cũng vậy/Gian nan rèn luyện mới thành công”.    

Thông qua hoạt động thực tiễn. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đối với mỗi người cán bộ thì việc tu dưỡng rèn luyện phải được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn của bản thân; trong sinh hoạt học tập, chiến đấu, công tác, trong các mối quan hệ với Tổ quốc, xã hội, Đảng, nhân dân và bản thân. Thông qua hoạt động thực tiễn, người cán bộ biết điều chỉnh hành vi của mình và cũng thông qua thực tiễn phẩm chất nhân cách của mỗi người được thể  hiện rất cụ thể, phong phú, đa dạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Trường kỳ kháng chiến là một viên đá thử vàng đối với  mỗi một quốc dân, đồng thời là một trường học để rèn luyện cho cán bộ”[6]. Chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn, thông qua quá trình tu dưỡng rèn luyện công phu mới có được phẩm chất nhân cách tốt đẹp và phẩm chất ấy ngày càng được bồi đắp, nâng cao, hoàn thiện. Người cũng khẳng định rõ mối quan hệ mật thiết giữa lý luận và hoạt động thực tiễn, đây là mối quan hệ biện chứng, quan hệ chặt chẽ. Thực tiễn cần tới lý luận soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, hướng dẫn, định hướng để không mắc phải bệnh kinh nghiệm, còn lý luận phải dựa trên cơ sở thực tiễn, phản ánh thực tiễn và phải luôn liên hệ với thực tiễn, nếu không sẽ mắc phải bệnh giáo điều. Nghĩa là thực tiễn, lý luận cần đến nhau, nương tựa vào nhau, hậu thuẫn, bổ sung cho nhau.           

Xây dựng môi trường lành mạnh. Trong thực tế ở những tập thể đoàn kết thống nhất phát huy được mặt tích cực của các hiện tượng tâm lý xã hội trong tập thể, có môi trường văn hóa lành mạnh thì ở đó nhân cách có điều kiện để hình  thành và phát triển. Sự tác động của tập thể đến nhân cách cá nhân, đồng thời cá nhân cũng góp phần xây dựng tập thể vững mạnh bằng phẩm chất và năng lực của mình.             

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân cách là một đóng góp quan trọng cho kho tàng lý luận về nhân cách. Người cán bộ cách mạng là người giữ trọng trách trong bộ máy quan trọng càng cần có đức tính hy sinh cho lợi ích của Đảng, của Tổ quốc. Điều này càng đặc biệt quan trọng trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khi các lợi ích được đẩy lên cao đặt ra cho mỗi người cần có quan điểm, suy nghĩ, hành động đúng đắn trong mối quan hệ với lợi ích tập thể và lợi ích của Tổ quốc. Người cán bộ phải luôn thấm nhuần quan điểm của Hồ Chí Minh: “Việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố làm; việc gì có hại cho dân dù nhỏ cũng cố tránh”. Vận dụng tư tưởng của Người về nhân cách người cán bộ cách mạng, Nghị quyết trung ương 4, khóa XI chỉ ra: “Mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý kiểm điểm, liên hệ theo chức trách, nhiệm vụ được giao, tự phê bình và phê bình thẳng thắn, dân chủ, nghiêm túc, chân thành, gắn với thực hiện Quy định về những điều đảng viên không được làm, theo cương vị công tác”./.

 [1]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2002, tập 5, tr. 252-253; [2]. Sđd,  tập 5, tr. 252; [3]. Sđd, tập 9, tr. 275; [4]. Sđd, tập 8, tr. 584; [5]. Sđd, tập 9, tr.284; [6]. Sđd, tập 5, tr. 148.

Ths. Chu Minh Thiện - Nguyễn Duy Tùng

Theo Đại học Nguyễn Huệ

Khúc Thị Lan Hương (st)

Bài viết khác: