1. Sự cần thiết thực hành đạo đức công vụ hiện nay

Đạo đức, hiểu một cách cụ thể là những nguyên tắc, chuẩn mực như những thang giá trị được xã hội thừa nhận. Đạo đức có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của mỗi người, phù hợp với lợi ích của xã hội, của đất nước. Đạo đức vừa mang tính "bổn phận" được hiểu là "văn hóa bổn phận", diễn ra một cách tự giác của mỗi cá nhân, đồng thời chịu sự chế định của dư luận xã hội.

thuc-hanh-dao-duc-cong-vu

Ảnh: internet

Thực hành đạo đức qua nhiều mối quan hệ. Từng người thì lấy mình làm đối tượng như thực hiện các hành vi cần, kiệm, liêm, chính. Trong mối quan hệ với đất nước và nhân dân là trung với nước, hiếu với dân. Quan hệ giữa con người với con người, đó là yêu thương, sống có tình có nghĩa. Với nhân loại, đó là tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung.

Đạo đức công vụ không nằm ngoài các lớp quan hệ đó, tức là đạo đức công dân, đạo đức của con người Việt Nam trong thời đại mới. Đồng thời, phải thực hành đạo đức của người cán bộ, công chức trong việc thực thi nhiệm vụ. Trong khi thực hành đạo đức công vụ, tùy theo tính chất nghề nghiệp, vị trí công tác, chức vụ được giao... mà có những yêu cầu, đòi hỏi khác nhau. Người đứng đầu, cán bộ chủ chốt phải có những phẩm chất đạo đức riêng như tính tiên phong, gương mẫu. Là cán bộ, công chức thì ai cũng phải gương mẫu, nhưng sự gương mẫu của người đứng đầu khác nhiều so với sự gương mẫu của công chức bình thường. Đúng như ông cha ta đã tổng kết: "Nhà dột từ nóc dột xuống"; "thượng bất chính, hạ tắc loạn". Đạo đức của người cán bộ lãnh đạo, quản lý khác đạo đức của người cán bộ không giữ chức vụ. Đạo đức của cấp tướng khác đạo đức của chiến sĩ. v.v... Đó chính là chiều sâu tư duy của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi bàn về con người, bàn về đạo đức của các loại người khác nhau. Không thể lẫn lộn đạo đức của người này với người khác, vị trí này với vị khác, chức vụ này với chức vụ khác..., nhưng cũng không nên tách bạch một cách siêu hình đạo đức của từng loại người. Bởi vì, tất cả đều có chung nền đạo đức công dân. Đạo đức công dân quan trọng nhất là cần, kiệm, liêm, chính, thiếu một trong bốn đức đó là con người không toàn diện. Do đó, đạo đức công vụ phải gắn chặt với đạo đức công dân.

Cán bộ là gốc của mọi công việc; mọi việc thành bại liên quan đến cán bộ tốt hay kém. Vì vậy, đạo đức công vụ giữ một vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với đất nước. Một người dân suy thoái về đạo đức thì ảnh hưởng đối với đất nước chỉ trong một phạm vi hẹp. Còn cán bộ, công chức, nếu suy thoái đạo đức thì không chỉ ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, Chính phủ, mà còn liên quan đến sự mất còn của chế độ. Vì vậy, thực hành đạo đức công vụ hiện nay có một ý nghĩa to lớn và tầm quan trọng đặc biệt trong việc củng cố, nâng cao lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.

2. Rèn luyện đạo đức công vụ theo tư tưởng, tấm gương Hồ Chí Minh

Một câu hỏi lớn được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra ngay sau ngày đọc Tuyên ngôn độc lập là "Sao cho được lòng dân?". Và câu trả lời của Người là "Chính phủ là công bộc của dân"; cán bộ phải lắng nghe dân, trọng dân, hiểu dân, học dân, gần dân, yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh thần chí công vô tư.

Nhận thức được giá trị thành quả cách mạng của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, của Chính phủ mới, một Chính phủ chỉ có một nhiệm vụ là gánh việc chung cho dân, chứ không phải đè đầu dân như trong thời kỳ thống trị của thực dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm suy nghĩ về quy chế công chức và đạo đức công vụ. Ngày 20/5/1950, Người đã ký Sắc lệnh 76/SL ban hành Quy chế công chức Việt Nam. Trong Lời nói đầu của Quy chế công chức viết: "Công chức Việt Nam là những công dân Việt Nam giữ một nhiệm vụ trong bộ máy nhà nước của chính quyền nhân dân... Công chức Việt Nam phải đem tất cả sức lực và tâm trí, theo đúng đường lối của Chính phủ và nhằm lợi ích của nhân dân mà làm việc". Điều 2 của Quy chế công chức quy định: "Công chức Việt Nam phải phục vụ nhân dân, trung thành với Chính phủ, tôn trọng kỷ luật, có tinh thần trách nhiệm và tránh làm những việc có hại đến thanh danh công chức hay đến sự hoạt động của bộ máy nhà nước. Công chức Việt Nam phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư".

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình thực hiện những chuẩn mực đạo đức chung, cán bộ công chức phải đặt lên hàng đầu ý thức và tinh thần trách nhiệm hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Điều này thuộc phạm trù "văn hóa bổn phận", tức là quyết tâm và tinh thần phục vụ nhân dân phải thấm sâu vào hành vi hàng ngày của công chức và phải thực hành suốt đời. Cơ sở khoa học, chiều sâu triết lý của phẩm chất đạo đức này xuất phát từ bản chất của chế độ mới - chính thể dân chủ cộng hòa, tức là quyền lực tối cao thuộc về nhân dân và dân là chủ, dân làm chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương đều do dân cử ra. Chính phủ và cán bộ, công chức là công bộc của dân.

Thực hành đạo đức công vụ theo tư tưởng, tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tình hình hiện nay, cần thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau đây:

Trước hết, nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ, công chức. Phải nhận thức về tính chất, ý nghĩa, tầm quan trọng của công việc mình làm, phải xác định cái gì lợi cho dân là chân lý, phục vụ nhân dân là chân lý, từ đó phải tận tâm, tận lực, quyết tâm làm tròn phần việc được giao. Nếu kết quả không tốt thì phải chịu trách nhiệm, đặc biệt là người đứng đầu. Phải có sự ràng buộc giữa lời nói và hành vi của mình, bảo đảm nói đi đôi với làm, nói thì phải làm và làm cho tốt. Nếu nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít, nói một đường làm một nẻo thì người cán bộ, công chức phải chịu hậu quả, chịu sự phán xét của nhân dân.

Thứ hai, phải nắm vững đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Nghĩa là người cán bộ phải nghiên cứu, hiểu thấu, thấm nhuần tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội để giải thích, tuyên truyền, cổ động quần chúng thực hành. Bản thân cán bộ, công chức cũng phải thi đua thực hiện chính sách của Nhà nước và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Trong công việc, chúng ta thường đặt trách nhiệm trước Đảng và Chính phủ lên trên hết, thậm chí là duy nhất. Với triết lý: Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân, và quan điểm dân là gốc: Bao nhiêu quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh có một cách tiếp cận độc đáo về trách nhiệm công chức đối với dân. Người viết: "Có người nói rằng: Mọi việc họ đều phụ trách trước Đảng, trước Chính phủ. Thế là đúng, nhưng chỉ đúng một nửa. Họ phụ trách trước Đảng và Chính phủ, đồng thời họ phải phụ trách trước nhân dân nhiều hơn phụ trách trước Đảng và Chính phủ, vì Đảng và Chính phủ vì dân mà làm các việc, và cũng phụ trách trước nhân dân. Vì vậy, nếu cán bộ không phụ trách trước nhân dân, tức là không phụ trách trước Đảng và Chính phủ, tức là đưa nhân dân đối lập với Đảng và Chính phủ"(1).

Đạo đức công vụ, trách nhiệm công chức không phải thụ động, ngoan ngoãn, một chiều phụ trách trước Đảng và Chính phủ. Bởi vì không phải cái gì Đảng và Chính phủ cũng đều đúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Nếu trong những chính sách, những chỉ thị, những khẩu hiệu của cấp trên, có gì khuyết điểm, cán bộ phải có tinh thần phụ trách trước nhân dân mà đề nghị những chỗ nên sửa đổi. Không làm như vậy, tức là cán bộ không phụ trách trước nhân dân, mà cũng không phụ trách trước Đảng và Chính phủ"(2). Giải thích rõ điều này, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta"(3).

Gắn liền với việc phụ trách trước nhân dân là tinh thần dám chịu trách nhiệm trước nhân dân vì những việc sai lầm của mình. Nếu làm không tốt, không được nhân dân tin yêu thì tự giác xin từ chức, dám nhận hình thức kỷ luật. Bác Hồ dạy: "Sửa chữa sai lầm, cố nhiên cần dùng cách giải thích, thuyết phục, cảm hóa, dạy bảo. Song không phải tuyệt nhiên không dùng xử phạt. Lầm lỗi có việc to, việc nhỏ. Nếu nhất luật không xử phạt thì sẽ mất cả kỷ luật, thì sẽ mở đường cho bọn cố ý phá hoại. Vì vậy, hoàn toàn không xử phạt là không đúng"(4).

Thứ ba, phải thực hành tiết kiệm, chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Tiết kiệm không đơn thuần chỉ là tiền bạc, vật chất, thời gian. Đối với công chức, một khía cạnh rất quan trọng là sắp xếp, bố trí, phân phối công việc, kể cả phân phối cán bộ. Bởi vì, nói đến tiết kiệm là nói đến năng suất, hiệu quả, là gắn liền với chống lãng phí. Trong công tác cán bộ mà không bố trí đúng người, đúng việc theo kiểu "thợ mộc làm thợ rèn, thợ rèn làm thợ mộc" khiến cho cả hai người đều lúng túng, không hoàn thành nhiệm vụ, thì đó là một biểu hiện lãng phí. Người tài không được sử dụng đúng chỗ là lãng phí chất xám, đây là lãng phí lớn nhất xét dưới góc độ phát triển bền vững.

Cán bộ, công chức phải luôn luôn thực hành chữ liêm, chống tham ô, tham nhũng để làm kiểu mẫu cho dân. Cán bộ có chức, quyền, chức vụ càng cao, nếu thiếu lương tâm, càng có dịp đục khoét, có dịp nhận hối lộ. Bất liêm lớn nhất là tham nhũng quyền lực, địa vị, bán quyền, mua chức. Đó là tham nhũng gốc, dẫn đến tham danh, trục lợi.

Học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, hiện nay Đảng ta nhấn mạnh vai trò của các đồng chí lãnh đạo, quản lý ở Trung ương, các ngành, các cấp là cực kỳ quan trọng: Mỗi đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng hãy là một chiến sĩ tiên phong, đi đầu trong cuộc đấu tranh này. Phải gương mẫu giữ mình cho trong sạch, không vướng vào tham nhũng, lãng phí; đồng thời phải lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện tốt trong đơn vị công tác của mình. Bằng quyết tâm chính trị và mọi biện pháp tích cực để ngăn chặn tất cả các con đường bán chức, mua quyền, mà một trong những biện pháp quan trọng nhất là động viên, tổ chức lực lượng, trí tuệ, tâm huyết của nhân dân.

Thực hành đạo đức công vụ là phải tẩy sạch bệnh quan liêu. Nguyên nhân của bệnh quan liêu là do "xa nhân dân: Do đó không hiểu tâm lý, nguyện vọng của nhân dân. Khinh nhân dân: Cho là "dân ngu khu đen", bảo sao làm vậy, không hiểu được chính trị, lý luận cao xa như mình. Sợ nhân dân: Khi có sai lầm, khuyết điểm thì sợ nhân dân phê bình, sợ mất thể diện, sợ phải sửa chữa. Không tin cậy nhân dân: họ quên rằng, không có lực lượng nhân dân, thì việc nhỏ mấy, dễ mấy, làm cũng không xong, có lực lượng nhân dân, thì việc khó mấy, to mấy, làm cũng được. Không hiểu biết nhân dân: Họ quên rằng nhân dân cần trông thấy lợi ích thiết thực (lợi ích gần và lợi ích xa, lợi ích riêng và lợi ích chung, lợi ích bộ phận và lợi ích toàn cục). Đối với nhân dân, không thể lý luận suông, chính trị suông. Không yêu thương nhân dân: do đó họ chỉ biết đòi hỏi nhân dân, không thiết thực giúp đỡ nhân dân"(5).

Biểu hiện của bệnh quan liêu: Đối với nhân dân thì chỉ biết dùng mệnh lệnh, ép dân chúng làm. Đối với việc, chỉ biết tổ chức hội nghị, viết nghị quyết, ra chỉ thị. Đối với mình thì nói một đường làm một nẻo, chỉ biết lo cho mình, không quan tâm đến nhân dân, không lo phụng sự nhân dân, mà còn muốn nhân dân phụng sự mình, trước mặt quần chúng thì lên mặt "quan cách mạng". Điều đáng lưu ý là bệnh quan liêu ấp ủ, dung túng, che chở cho tham ô, lãng phí. Bệnh quan liêu gieo hạt, vun trồng cho tham ô, lãng phí nảy nở. Vì vậy, muốn trừ sạch tham ô, lãng phí, trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu. Bệnh quan liêu, mệnh lệnh trái hẳn với tinh thần trách nhiệm, trái hẳn với đạo đức công vụ.

Nâng cao ý thức trách nhiệm, suốt đời tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân, làm đầy tớ trung thành cho dân; thực hành liêm chính, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu là nội dung quan trọng nhất của đạo đức công vụ. Đạo đức công vụ theo tư tưởng Hồ Chí Minh gắn liền với những vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, thể hiện triết lý nhân sinh vì hạnh phúc của nhân dân và sự phồn vinh của đất nước.

Trong thời kỳ đổi mới, đạo đức công vụ được phản ánh rõ nét trong những quy định của Hiến pháp và pháp luật. Điều 8 Hiến pháp 1992 quy định: "Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng". Tinh thần đó của Hiến pháp năm 1992 trở lại đích thực với tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công vụ. Mỗi cán bộ, công chức có trách nhiệm quán triệt và thực hiện một cách tốt nhất đạo đức công vụ theo tư tưởng, tấm gương Hồ Chí Minh để xây dựng nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, văn minh./.

                  

PGS. TS. Bùi Đình Phong - Viện Hồ Chí Minh

Theo http://tcnn.vn

Thu Hiền (st)

---------------------------

Ghi chú:

(1), (2), (3), (4) Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H. 1995, tr. 294, 294, 297, 284.

(5) Sđd, tập 6, tr. 292 - 293.

Bài viết khác: