Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta những lời tâm huyết trong bản “Di chúc” lịch sử. Người căn dặn: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh phê bình, tự phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”(1).

Tự phê bình và phê bình là nguyên tắc hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam, là vũ khí sắc bén, là “quy luật phát triển Đảng”, giúp Đảng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Thông qua tự phê bình và phê bình, Đảng sớm phát hiện những mâu thuẫn phát sinh trong nội bộ Đảng, những sai lầm, khuyết điểm trong quá trình lãnh đạo, để kịp thời đề ra những biện pháp khắc phục có hiệu quả những sai lầm, khuyết điểm đó. Thấu triệt tầm quan trọng của tự phê bình và phê bình trong công tác xây dựng Đảng, trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta những lời tâm huyết trong bản “Di chúc” lịch sử. Người căn dặn: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh phê bình, tự phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”(1).

1. Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi ra đời đã rất coi trọng vấn đề tự phê bình và phê bình trong tổ chức và hoạt động của mình. Là Người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, trong tư duy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về các nguyên tắc hoạt động của tổ chức Đảng, nguyên tắc tự phê bình và phê bình chiếm vị trí thật đặc biệt. Theo lời Người, muốn tạo được sự đoàn kết và nhất trí cao về tư tưởng chính trị trong một tổ chức, nhất là tổ chức Đảng thì tự phê bình và phê bình là cách thức không thể thiếu. Người luôn nhấn mạnh rằng, tự phê bình và phê bình cần thiết đối với tổ chức Đảng, cán bộ, đảng viên, các tổ chức, đoàn thể cách mạng nói chung không khác gì như không khí cần thiết cho con người. Theo Người, đối với Đảng cách mạng thì phải thực hiện “Đoàn kết Đảng bằng đấu tranh nội bộ”, trong đó tự phê bình và phê bình là phương thuốc quan trọng và hiệu nghiệm nhất để chữa các chứng bệnh như tham ô, hủ hoá, tham lam, lười biếng, hiếu danh, kiêu ngạo, kéo bè kéo cánh, cá nhân chủ nghĩa, xu nịnh, a dua, chủ quan, ích kỷ, xa rời quần chúng, ngôi thứ, địa vị... Tự phê bình và phê bình giúp cho Đảng trưởng thành và phát triển, vì “tự phê bình” có tầm quan trọng đối với Đảng, với người cán bộ cách mạng như việc mài dao cho sắc, luyện vàng cho trong, lọc nước cho sạch: “Dao có mài, mới sắc. Vàng có thui, mới trong. Nước có lọc, mới sạch. Người có tự phê bình mới tiến bộ. Đảng cũng thế”(2).

Tháng 7- 1939, nhận thức được nguy cơ do những sai lầm, khuyết điểm mà Đảng đã mắc phải, đồng chí Nguyễn Văn Cừ - Tổng Bí thư của Đảng khi ấy đã viết tác phẩm “Tự chỉ trích”; trong đó, nghiêm khắc tự phê bình và phê bình những sai lầm và khuyết điểm mà Đảng ta do chủ quan, duy ý chí đã mắc phải và chỉ rõ việc cần thiết “phải có can đảm mở to mắt ra nhìn sự thật” và “công khai, mạnh dạn, thành thực vạch những lỗi lầm của mình và tìm phương châm sửa đổi, chống những xu hướng hoạt đầu, thỏa hiệp, như thế không phải làm yếu Đảng, mà là làm cho Đảng được thống nhất, mạnh mẽ”. Đó chính là sự đòi hỏi rất cao của Tổng Bí thư trong sinh hoạt Đảng theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình. Nguyên tắc sinh hoạt đó cần phải được tuân thủ một cách nghiêm túc trong điều kiện Đảng cầm quyền, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng.

Sau thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, và từ khi trở thành đảng cầm quyền, Đảng ta đã chú trọng thực hiện tự phê bình và phê bình hoạt động lãnh đạo của mình, coi đó là một nhiệm vụ quan trọng của công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Sau này, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” năm 1947, “Tự phê bình” đăng báo Nhân Dân ngày 20-5-1951, “Phê bình” đăng báo Nhân Dân ngày 12-7-1951, “Tự phê bình và phê bình” đăng báo Nhân Dân ngày 14-2-1952, “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” đăng báo Nhân Dân ngày 3-2-1969..., Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh tầm quan trọng và tính tất yếu của việc phải thường xuyên tự phê bình và phê bình. Không chỉ yêu cầu cán bộ, đảng viên phải thường xuyên, nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình mà Người còn là một tấm gương mẫu mực của tinh thần tự phê bình và phê bình.

Tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt và hoạt động của Đảng đúng đắn theo Chủ tịch Hồ Chí Minh không những không làm giảm uy tín của Đảng mà còn làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ngày càng tin tưởng vào Đảng. Bởi vì, tự phê bình và phê bình chính là một biện pháp để giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, góp phần quan trọng trong việc nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Cán bộ, đảng viên có phẩm chất đạo đức cách mạng, không chỉ luôn kiên định lập trường cách mạng, lý tưởng của Đảng mà còn luôn luôn cảnh giác trước âm mưu của các thế lực thù địch, sẵn sàng vì Đảng, vì Tổ quốc mà chiến đấu; không những kiên quyết làm đúng với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, biết đặt lợi ích của Đảng lên trên lợi ích cá nhân, mà còn phải “khi có sai lầm thì sẵn sàng và kịp thời sửa chữa không để sai lầm nhỏ cộng lại thành sai lầm to, do đó phải biết thật thà tự phê bình và phê bình đồng chí khác để cùng nhau tiến bộ”(3). Hồ Chí Minh chỉ rõ: tự phê bình và phê bình là để đoàn kết, thống nhất, hướng đến mục đích chung; là phải chân thành, có tinh thần xây dựng, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, chứ không được bới móc, mỉa mai hoặc phê bình lấy lệ; không nên chỉ làm chiếu lệ, hình thức, qua loa đại khái mà cần phải được làm thường xuyên, liên tục, chứ không được làm theo kiểu có phong trào.

Trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, “thừa nhận khuyết điểm của mình” và Đảng cần phải biết những ưu điểm và khuyết điểm của mình để tìm cách khắc phục, các văn kiện của Đảng qua các kỳ Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI và nhất là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã chỉ rõ: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...”. Vì vậy, cần phải kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và của nhân dân đối với Đảng. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI nêu rõ, cùng với việc tiếp tục thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, các quy định đã có về xây dựng Đảng, cần tập trung thực hiện tốt nhóm giải pháp thứ nhất “về tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của cấp trên”. Tiếp đó, “Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XII của Đảng” cũng nhấn mạnh: “Cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp từ Trung ương đến cơ sở nghiêm túc, tự giác và có kế hoạch, biện pháp phù hợp để khắc phục, sửa chữa những yếu kém, khuyết điểm”(4) thông qua tự phê bình và phê bình; gắn thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” của Bộ Chính trị với Nghị quyết Trung ương 4 “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.

2. Thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, phát huy tinh thần tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của cấp trên, nhất là của cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị để cán bộ, đảng viên và quần chúng học tập và noi theo, trong những năm qua nguyên tắc tự phê bình và phê bình đã được các cấp ủy Đảng chú trọng, triển khai sâu rộng từ Trung ương xuống địa phương.

Thực tế cho thấy, việc thực hiện tự phê bình và phê bình với: “Mục đích phê bình để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ”(5), “phê bình mình cũng như phê bình người phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm lẫn khuyết điểm. Đồng thời, chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, châm chọc”(6) và “mỗi cán bộ, mỗi đảng viên mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì trong Đảng sẽ không có bệnh mà Đảng sẽ khoẻ mạnh vô cùng”(7)... theo những chỉ dẫn sinh động của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần tạo chuyển biến mạnh mẽ và sâu rộng hơn về ý thức tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội thực dụng; góp phần đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn tham nhũng, tiêu cực của đội ngũ cán bộ, đảng viên, thiết thực xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Tự phê bình và phê bình là một nội dung quan trọng trong sinh hoạt và hoạt động của Đảng, là phương pháp căn bản để củng cố và tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại, phát triển của Đảng, là một biện pháp hữu hiệu để giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên nhằm phát huy ưu điểm, khắc phục thiếu sót, khuyết điểm. Vì vậy, để học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình, tiếp tục phát huy ý thức tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, cấp ủy các cấp cần chú trọng một số giải pháp sau:

Một là, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về tự phê bình và phê bình. Trong đó, cần làm rõ tầm quan trọng của tự phê bình và phê bình; biểu hiện tự phê bình và phê bình trong lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống và trong hoạt động lãnh đạo của các cấp ủy đảng. Trong sinh hoạt của mỗi tổ chức, cần thường xuyên nâng cao ý thức tự phê bình và phê bình để giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, đồng thời kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên trong cơ quan, đơn vị, trong cộng đồng để tạo uy tín, niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, đối với chế độ. Trong sinh hoạt Đảng, cần phải “khéo” sử dụng vũ khí tự phê bình và phê bình; khi tiến hành tự phê bình và phê bình là phê bình việc chứ không phải phê bình người, giúp cho đồng chí mình nhận ra những sai lầm, khuyết điểm để có biện pháp tích cực sửa chữa.

Hai là, cán bộ lãnh đạo, quản lý phải là những người gương mẫu, đi đầu trong tự phê bình và phê bình. Theo Hồ Chí Minh: “Người đời ai cũng có khuyết điểm. Có làm việc thì có sai lầm. Chúng ta không sợ có sai lầm và khuyết điểm, chỉ sợ không chịu cố gắng sửa chữa sai lầm và  khuyết điểm. Và càng sợ những người lãnh đạo không biết tìm cách đúng để giúp cán bộ sửa chữa sai lầm và khuyết điểm”(8). Quy luật của cuộc sống là sự tồn tại của các mặt đối lập, trong mọi vấn đề cũng như trong mỗi người đều có tốt - xấu, tích cực - tiêu cực, tiến bộ - phản tiến bộ... mà nhiệm vụ của người cách mạng là phát huy mặt tốt, tích cực, tiến bộ, đồng thời khắc phục, hạn chế mặt xấu, tiêu cực, phản tiến bộ. Tự phê bình và phê bình để “làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”, vì vậy, cán bộ lãnh đạo, quản lý của các cấp ủy Đảng, các cấp chính quyền, các ban, ngành, các tổ chức chính trị - xã hội không chỉ nhận thức sâu sắc, mà còn phải đồng thời lãnh đạo, tổ chức và nghiêm túc thực hiện chế độ tự phê bình và phê bình một cách tự giác, gương mẫu và có hiệu quả. Trong sinh hoạt chi bộ, cấp uỷ phải có thái độ nghiêm túc kiểm điểm đánh giá đúng ưu điểm, nhược điểm của các cấp uỷ viên, các đảng viên, nhất là các đồng chí lãnh đạo chủ chốt để kịp thời sửa chữa sai sót, yếu kém đồng thời làm gương về tự phê bình và phê bình, đặc biệt là “nói phải đi đôi với làm” - nghĩa là nghiêm túc sửa chữa ngay sau khi thực hiện tự phê bình và phê bình.

Hồ Chí Minh cho rằng, nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Bởi vậy, phương pháp nêu gương về tự phê bình và phê bình là phương pháp nên được sử dụng rộng rãi để phát huy hiệu quả trong hoạt động và sinh hoạt Đảng.

Ba là, nội dung và hình thức phát huy tự phê bình và phê bình phải phong phú, phù hợp, cụ thể, sát thực đối với đời sống hàng ngày cũng như trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của cán bộ, đảng viên. Từ đó, giúp mỗi người luôn ý thức được trách nhiệm bản thân, tạo nên sự đồng thuận, tin tưởng và quyết tâm thực hiện thắng lợi các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tổ chức, đơn vị, địa phương hướng tới thực hiện thắng lợi mục tiêu, lý tưởng của Đảng.

 Coi tự phê bình và phê bình là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt và cấp bách nhất, nhằm “tạo được sự chuyển biến rõ rệt, khắc phục được những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, nhằm xây dựng Đảng ta thật sự là Đảng cách mạng chân chính, ngày càng trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin trong Đảng và nhân dân, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi các chủ trương, nghị quyết của Đảng”(9).

Bốn là, cán bộ, đảng viên phải thường xuyên chủ động, tự giác trong tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt và hoạt động; cấp ủy các cấp quan tâm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần để động viên tinh thần tự giác của cán bộ, đảng viên về tự phê bình và phê bình. Qua đó, giúp cán bộ, đảng viên thấy được những ưu, khuyết điểm của mình, tìm ra cách thức, phương pháp khắc phục nhằm củng cố và tăng cường sự thống nhất về ý chí và hành động. Người cán bộ, đảng viên phải thường xuyên xem xét lại mọi hành động, mọi việc làm của bản thân mình; từng ngày, từng giờ, người đảng viên phải xem lại những việc làm của mình có đúng, có phù hợp với những chuẩn mực của xã hội, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước hay không? Chỉ có nghiêm túc tự phê bình và phê bình như vậy mới giúp cho cán bộ, đảng viên tránh được những sai lầm, khuyết điểm không đáng có, mới xứng đáng vừa là người lãnh đạo vừa là đày tớ trung thành của Nhân dân như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng mong muốn ./.

PGS. TS. Trần Thị Anh Đào

Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Theo http://www.tuyengiao.vn

Thu Hiền (st)

------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1996, t.12, tr.510.

(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr. 209.

(3), (5), (6), (7), (8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.250, 232, 232, 239, 283.

(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XII của Đảng, H, 2015, tr.35.

(9) Ban Tuyên giáo Trung ương: Các văn bản chỉ đạo và triển khai Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2012, tr.13-14.

Bài viết khác: