Hồ Chí Minh khai thác di sản tư tưởng Nho giáo trong bối cảnh bản thân hệ thống tư tưởng Nho giáo bất lực trước việc cung cấp công cụ để nhận thức và luận giải hiện thực xã hội Việt Nam vốn đã biến đổi sâu sắc từ giữa thế kỷ XIX trước sự xâm lược của thực dân phương Tây, xâm nhập của văn hóa phương Tây. Hồ Chí Minh khai thác di sản tư tưởng Nho giáo trên nền tảng thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng mácxít, trên cơ sở vốn văn hoá phương Tây phong phú, và luôn gắn liền việc khai thác các di sản tư tưởng - văn hoá, với thực tiễn giải phóng và phát triển đất nước, với việc giải quyết những vấn đề mà thực tiễn đặt ra.
Sinh ra trong gia đình có truyền thống Nho học, Hồ Chí Minh có một quá trình tiếp biến Nho giáo rất căn bản và có hệ thống: Từ tiếp thu di sản Nho học từ người cha, đến học tập các thầy đồ nổi tiếng một thời như Hoàng Phan Quỳnh, Vương Thúc Quý, Trần Nhân, v.v..; từ việc học tập qua trao đổi với các nhà nho thế hệ cha chú như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, đến quá trình tự học lâu dài, bền bỉ; từ tiếp thu di sản Nho học đến tiếp biến Nho học, tổng hoà giá trị của Nho học với tinh hoa lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng dân chủ phương Tây; từ sáng tạo tư tưởng dựa trên di sản Nho học đến hiện thực hoá tư tưởng ấy trong thực tiễn cách mạng; từ sự khai thác mang tính cá nhân, đến đúc rút các quan điểm mang tính định hướng cho việc khai thác di sản tư tưởng Nho giáo.
Hồ Chí Minh khai thác di sản tư tưởng Nho giáo trong bối cảnh bản thân hệ thống tư tưởng Nho giáo bất lực trước việc cung cấp công cụ để nhận thức và luận giải hiện thực xã hội Việt Nam vốn đã biến đổi sâu sắc từ giữa thế kỷ XIX trước sự xâm lược của thực dân phương Tây, xâm nhập của văn hóa phương Tây; các phong trào chính trị - xã hội chịu ảnh hưởng của Nho giáo bất lực trước việc giải quyết những vấn đề mà thực tiễn lịch sử của dân tộc đặt ra; hệ thống giáo dục và khoa cử Nho học bị giải tán.
Hồ Chí Minh khai thác di sản tư tưởng Nho giáo trên nền tảng thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng mácxít, trên cơ sở vốn văn hoá phương Tây phong phú, và luôn gắn liền việc khai thác các di sản tư tưởng - văn hoá, bao gồm Nho giáo, chủ nghĩa Mác, v.v.., với thực tiễn giải phóng và phát triển đất nước, với việc giải quyết những vấn đề mà thực tiễn đặt ra. Ngoài ra, cũng cần lưu ý, là Hồ Chí Minh khai thác di sản tư tưởng Nho giáo với phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, với bản lĩnh chính trị - văn hoá, và với vị thế của một người có quyền uy tư tưởng nhất định khi trở thành một nhân vật có uy tín của Quốc tế Cộng sản, lãnh tụ của cách mạng Việt Nam.
Nho giáo mà Hồ Chí Minh khai thác chủ yếu thể hiện trong Tứ thư, Ngũ kinh; Nho giáo gắn liền với các nhà nho thời kỳ lập thuyết (thời Tiên Tần) như Khổng Tử, Tăng Tử, Mạnh Tử; Nho giáo tinh tuý nhưng không kinh viện, mà gắn liền và dung nhập chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, dung nhập hơi thở của thời cuộc ở bước chuyển biến có ý nghĩa bản lề của lịch sử dân tộc.
1. Những di sản tư tưởng Nho giáo được Hồ Chí Minh khai thác
Trước hết, cần xác định, Hồ Chí Minh nhận diện Nho giáo như thế nào.
Năm 1923, khi trả lời phỏng vấn của nhà báo Nga Ôxíp Manđenxtam, Hồ Chí Minh nói: “Tôi sinh ra trong một gia đình nhà nho An Nam... Thanh niên trong những gia đình ấy thường học Khổng giáo, đồng chí chắc biết Khổng giáo không phải là tôn giáo mà là một thứ khoa học về kinh nghiệm đạo đức và phép ứng xử. Và trên cơ sở đó người ta đưa ra khái niệm về “thế giới đại đồng””(1).
Năm 1924, trong một tác phẩm viết chung, Hồ Chí Minh đã đề cập đến “tinh thần triết học và giáo lý của Khổng Tử”, và gọi Khổng Tử là “vĩ nhân”, gọi Mạnh Tử là “một lý luận gia cách mạng của thế hệ ông”(2).
Ngày 20-2-1927, chỉ năm ngày sau khi Chính phủ Trung Hoa Dân quốc ban hành lệnh xoá bỏ những nghi lễ tưởng niệm Khổng Tử kèm theo những khoản dự chi cho những cuộc nghi lễ ấy và chuyển những đền thờ Khổng Tử thành các trường học công, Hồ Chí Minh đã viết bài báo có tên “Khổng Tử”, trong đó khẳng định: “Với việc xoá bỏ những lễ nghi tưởng niệm Khổng Tử, Chính phủ Trung Quốc đã làm mất đi một thể chế cũ và trái với tinh thần dân chủ. Còn những người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình, về mặt tinh thần bằng cách đọc các tác phẩm của Khổng Tử, và về mặt cách mạng thì cần đọc các tác phẩm của Lênin”(3).
Năm 1949, trong cuốn sách Hồ Chí Minh truyện, xuất bản bằng tiếng Trung Quốc (Bát Nguyệt thư xã xuất bản, người dịch Trương Niệm Thức), đã ghi một nhận xét của Hồ Chí Minh:
“Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân.
Tôn giáo Giêsu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả.
Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng.
Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta.
Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải đã có những ưu điểm chung đó sao? Họ đều muốn “mưu hạnh phúc cho loài người, mưu hạnh phúc cho xã hội”. Nếu hôm nay, họ còn sống trên đời này, nếu họ họp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết.
Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”(4).
Một số dẫn chứng như trên cho thấy, Nho giáo được nhận diện trong quan niệm của Hồ Chí Minh: Là Nho giáo thời Tiên Tần, hay là học thuyết Khổng Mạnh; là một hệ thống tư tưởng, chứ không phải là một tôn giáo; cốt lõi của Nho giáo là học thuyết về đạo đức, học thuyết về xử lý các mối quan hệ đạo đức cơ bản của xã hội; Nho giáo ra đời trong những điều kiện lịch sử cụ thể, chịu sự chi phối của bối cảnh ra đời, có nhiều ưu điểm, song cũng có cả những hạn chế, và trong đó, nếu nhìn vào cốt lõi của nó (học thuyết về tu dưỡng đạo đức cá nhân), thì ưu điểm là nổi bật, cần kế thừa và phát huy. Những nhà tư tưởng sáng lập ra Nho giáo, ở thời đại của họ, đều xứng đáng là những vĩ nhân, những nhà lý luận cách mạng; Nho giáo đã từng bị các triều đại phong kiến lợi dụng.
Sự nhận diện Nho giáo như trên của Hồ Chí Minh thể hiện quan điểm khoa học, khách quan, công bằng, quan điểm khoan dung văn hoá, cũng như bản lĩnh của nhà tư tưởng trong ứng xử với các di sản tư tưởng văn hoá truyền thống.
Từ cách nhận diện như vậy, Hồ Chí Minh đã chọn lọc, kế thừa, cải biến di sản tư tưởng Nho giáo để làm giàu vốn tri thức văn hoá của bản thân.
Hồ Chí Minh đã khai thác Nho giáo trên ba cấp độ sau:
Thứ nhất, Hồ Chí Minh đã kế thừa, sử dụng nhiều phạm trù, mệnh đề, có giá trị và sức sống của Nho giáo, đồng thời đã bổ sung, phát triển những nội dung mới, phù hợp với thời đại.
Có thể nêu ra một số phạm trù của Nho giáo được Hồ Chí Minh sử dụng như Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm, Trung, Hiếu, v.v.. Việc Hồ Chí Minh cải tạo các phạm trù của Nho giáo thể hiện rõ nhất ở hai phạm trù Trung và Hiếu. Hồ Chí Minh viết: “Đạo đức, ngày trước thì chỉ trung với vua, hiếu với cha mẹ. Ngày nay, thời đại mới, đạo đức cũng phải mới. Phải trung với nước. Phải hiếu với toàn dân, với đồng bào”(5). Rõ ràng, ở Hồ Chí Minh, nếu chữ Trung mang một nội hàm hoàn toàn mới, từ Trung với vua trở thành Trung với nước, thì chữ Hiếu lại được mở rộng trên cơ sở phổ quát hoá đạo đức cá nhân, trong đó gốc của Hiếu với Dân phải là Hiếu với cha mẹ.
Những mệnh đề tư tưởng của Nho giáo được Hồ Chí Minh sử dụng nhiều lần như: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”; “Phú quý bất năng dâm; Bần tiện bất năng di; Uy vũ bất năng khuất”, “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”, v.v…
Những mệnh đề trên được Hồ Chí Minh tiếp thu, và trong nhiều trường hợp, được Hồ Chí Minh khẳng định chính là những phẩm chất của những người cách mạng, những người cộng sản trong thời đại mới. Điều đó cho thấy, trong quan niệm của Hồ Chí Minh, mặt giá trị, tính thời đại của Nho giáo là rất lớn.
Thứ hai, Hồ Chí Minh đã tiếp thu và thực hành một số nguyên tắc tư duycủa Nho giáo.
Phương pháp tư duy biện chứng của Nho giáo (của Khổng Tử, Mạnh Tử, và đặc biệt là Kinh Dịch) thể hiện rất đậm nét ở Hồ Chí Minh.
Phương pháp tư duy triết học - chính trị của Nho giáo với các nguyên tắc: Coi trọng tính chủ thể của con người; coi trọng giáo dục, đặc biệt là giáo dục đạo đức, coi đức là gốc; từ cải tạo; tự cải tạo con người đi đến cải tạo xã hội, v.v… cũng được Hồ Chí Minh kế thừa, sự dụng một cách nhuần nhuyễn trong tư duy, trong thực tiễn cách mạng. Có thể dẫn ra một số luận điểm của Hồ Chí Minh để chứng minh cho nhận định trên: “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”(6); “Khổng Tử nói: “Mình phải chính tâm tu thân” nghĩa là việc gì cũng phải làm kiểu mẫu; có thế mới “trị quốc bình thiên hạ” được. Trị quốc bình thiên hạ đây tức là ta kháng chiến đánh Pháp, kiến quốc xây dựng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hòa bình thế giới. Muốn cải tạo xã hội thì lòng mình phải cải tạo. Nếu lòng mình không cải tạo thì đừng nói đến cải tạo xã hội. Lòng mình còn tham ô, lãng phí, muốn cải tạo xã hội làm sao được”(7)...
Thứ ba, Hồ Chí Minh đã tiếp thu và thực hành triết lý sốngcủa các bậc đại Nho với các nguyên tắc tu nhân, nhập thế, tự nhiệm, dĩ thân vi giáo, v.v.. Có thể dẫn ra một số thí dụ. Hồ Chí Minh nói: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”(8). Người nói như vậy và luôn thực hành nguyên tắc này, chẳng hạn việc Hồ Chí Minh luôn nghiêm khắc thực hiện nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”.
Như vậy, có thể thấy, Hồ Chí Minh đã khai thác di sản tư tưởng của Nho giáo - Nho giáo đã ảnh hưởng đến Hồ Chí Minh một cách sâu sắc, từ những phạm trù, mệnh đề tưtưởng đến phương pháp tư duy; từ tư tưởng, học thuyết đến triết lý sống; từ nhận thức đến thực hành.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về khai thác di sản tư tưởng của Nho giáo
Thứ nhất, khai thác di sản tư tưởng Nho giáo phải trên cơ sở quán triệt quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử.
Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử, Hồ Chí Minh quan niệm, bất cứ một hệ thống tư tưởng nào cũng ra đời trong những điều kiện lịch sử cụ thể, chịu sự chi phối, quy định của những điều kiện ấy. Chính vì thế, để lý giải, đánh giá nội dung, giá trị của bất cứ hệ thống tư tưởng nào, cũng cần phải đặt nó vào trong những điều kiện ra đời của nó. Mọi thiên kiến, áp đặt bằng con mắt phi lịch sử với các di sản quá khứ đều là điều không thể chấp nhận được, đều có nguy cơ dẫn đến sai lầm, hoặc tuyệt đối hoá hoặc phủ nhận sạch trơn giá trị của các di sản quá khứ. Nói về học thuyết Mác, Hồ Chí Minh viết: “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử Châu Âu. Mà Châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”(9), và vì thế, “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được”(10). Đối với Nho giáo, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “... cách đây 20 thế kỷ, chưa có chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc và các dân tộc chưa bị áp bức như chúng ta ngày nay, cho nên bộ óc Khổng Tử không bao giờ bị khuấy động vì các học thuyết cách mạng”(11), và “nếu Khổng Tử sống ở thời đại chúng ta và nếu ông khăng khăng giữ những quan điểm ấy thì ông sẽ trở thành phần tử phản cách mạng. Cũng có khả năng là siêu nhân này chịu thích ứng với hoàn cảnh và nhanh chóng trở thành người kế tục trung thành của Lênin”(12). Vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử, Người cũng xem xét các di sản tư tưởng quá khứ trước những yêu cầu mới của thời đại mới, để từ đó kế thừa một cách biện chứng các di sản này.
Thứ hai, khai thác di sản tư tưởng Nho giáo phải trên quan điểm với thái độ trân trọng, kế thừa, phát triểncó chọn lọc.
Hồ Chí Minh đã nêu ra một quan điểm mang tính chỉ dẫn rất toàn diện: “Không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ… Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý… Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm… Cái gì mới mà hay, thì ta phải làm”(13).
Quan điểm của người vừa chống thái độ tuyệt đối hoá cái “cổ” coi thường cái “kim”, vừa chống thái độ tuyệt đối hoá cái “kim” coi thường cái “cổ”, vì thế có tính khoa học sâu sắc.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không đúng, song những điều hay trong đó thì ta nên học”.
Thứ ba, khai thác di sản tư tưởng Nho giáo với thái độ khoan dung trong xem xét, đánh giá, ứng xử với các hệ thống tư tưởng khác nhau.
Không tuyệt đối hoá, không “độc quyền tư tưởng”, thì mới có thể chấp nhận những cái khác khác biệt để trân trọng và tiếp biến. Hồ Chí Minh không chỉ thừa nhận chủ nghĩa Mác có ưu điểm, mà khẳng định học thuyết Khổng Tử, tôn giáo Giêsu, đạo Phật, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, v.v.. đều có ưu điểm, thậm chí là những ưu điểm chung với ưu điểm của chủ nghĩa Mác. Hồ Chí Minh chỉ rõ, không phải chỉ có chủ nghĩa Mác, mà các học thuyết, hệ thống tư tưởng - văn hoá nói trên cũng hướng đến mục tiêu “mưu hạnh phúc cho loài người, mưu hạnh phúc cho xã hội”. Hồ Chí Minh là người ngay từ rất sớm, đã khẳng định tôn giáo chứa đựng những hạt nhân văn hoá - đạo đức có giá trị, v.v..
Có thể thấy rõ, quan điểm khoan dung, bản lĩnh văn hoá kết hợp với tinh thần khoa học của quan điểm duy vật biện chứng, của thái độ trân trọng các di sản quá khứ đã giúp Hồ Chí Minh có khả năng khai thác di sản tư tưởng Nho giáo một cách rất thành công.
(1), (8), (9), (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.461, 284, 509-510, 509.
(3), (11), (12) Sđd, t.2, tr.454-455, 563, 562, 563.
(4) Dẫn theo Võ Nguyên Giáp (chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh với con đường cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.51.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.170.
(6), (13) Sđd, t.5, tr.280, 112-113.
(7) Sđd, t.8, tr.113.
PGS, TS Lại Quốc Khánh
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Theo lyluanchinhtri.vn
Tâm Trang (st)