Một trong những di sản vô giá mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho Đảng và nhân dân ta là tư tưởng của Người về lý luận và công tác lý luận. Theo Người, lý luận có vai trò vô cùng quan trọng đối với Đảng, đối với sự nghiệp cách mạng, là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng. Đồng thời, việc nắm vững lý luận sẽ góp phần quan trọng vào việc xây dựng con người mới, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, chống lại các quan điểm xuyên tạc, phủ nhận, bóp méo chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của lý luận và công tác lý luận
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, lý luận có vai trò rất quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng, đối với Đảng và đối với mỗi con người.
Đối với cách mạng Việt Nam: Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại của các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là do thiếu lý luận cách mạng đúng đắn dẫn đường. Trong quá trình tìm đường cứu nước, qua khảo sát thực tiễn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến với lý luận Mác - Lê-nin, tìm thấy con đường giải phóng cho dân tộc Việt Nam. Xuất phát từ bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”(1). Trên trang bìa của tác phẩm Đường Kách mệnh (năm 1927), Người ghi rõ luận điểm của V.I. Lê-nin khi nói về vị trí, vai trò của lý luận cách mạng: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động… Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong”(2). Hoặc: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”(3). “Lý luận làm cho quần chúng giác ngộ, bày cho quần chúng tổ chức, động viên quần chúng để đấu tranh cho đúng. Nhờ lý luận mà quần chúng hiểu rõ nguyên nhân vì sao mà cực khổ, thấy rõ đường lối đấu tranh để giải phóng mình, hiểu rõ phương pháp đấu tranh với địch. Có lý luận soi đường thì quần chúng hành động mới đúng đắn, mới phát triển được tài năng và lực lượng vô cùng tận của mình”(4).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hoạt động không mệt mỏi để truyền bá lý luận Mác - Lê-nin vào phong trào cách mạng Việt Nam đưa đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930, tạo ra bước ngoặt lớn đối với tiến trình lịch sử dân tộc. Trong thời kỳ chuẩn bị giành chính quyền, Người đã dùng lý luận để phân tích mâu thuẫn của xã hội Việt Nam lúc đó, vạch ra mục tiêu chiến lược và con đường của cách mạng Việt Nam, dẫn dắt nhân dân ta giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào chỉ đạo công cuộc kháng chiến và đã giành được thắng lợi vẻ vang.
Lý luận không chỉ có vai trò trong cách mạng giải phóng dân tộc, mà còn rất cần thiết trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, bởi cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta tiến hành là một cuộc cách mạng phức tạp và nhiều khó khăn. Chúng ta phải: xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta; thay đổi triệt để những nếp sống và thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm; thay đổi quan hệ sản xuất cũ, xóa bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới không có bóc lột, áp bức. Do đó, muốn đỡ “mò mẫm”, muốn đỡ phạm sai lầm thì một mặt chúng ta cần học tập và vận dụng kinh nghiệm của các nước anh em, mặt khác chúng ta cần nâng cao trình độ lý luận Mác - Lê-nin và vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam để tìm ra quy luật vận động và phát triển của cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng tới thắng lợi.
Sự vận động của cách mạng Việt Nam trong hơn 80 năm qua đều là kết quả và chịu sự tác động trực tiếp của lý luận Mác - Lê-nin. Trên cơ sở Học thuyết vĩ đại này, những người cộng sản Việt Nam đã hành động theo xu hướng tiến bộ trên cơ sở nắm vững bản chất và quy luật vận động của toàn bộ tiến trình lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúng khi cho rằng, cái cốt lõi, hàng đầu mà chủ nghĩa Mác - Lê-nin đem lại cho chúng ta là phương pháp hành động đúng để nhận thức và cải tạo hiện thực khách quan. Tổng kết kinh nghiệm thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Chúng ta giành được những thắng lợi to lớn, trước hết là nhờ cái vũ khí không gì thay thế được là chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Ngày nay, những thành tựu lý luận đã tạo cơ sở khoa học cho việc xây dựng Cương lĩnh chính trị, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, cụ thể hóa và phát triển đường lối đổi mới của Đảng trên các lĩnh vực.
Đối với Đảng: Là người sáng lập, xây dựng và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rõ sự cần thiết của lý luận đối với Đảng. Người chỉ rõ cách mạng muốn thành công tất yếu phải có Đảng lãnh đạo. “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”(5). Chủ nghĩa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập là chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”(6).
Để làm tốt vai trò lãnh đạo của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: Đảng phải thường xuyên nâng cao trình độ lý luận Mác - Lê-nin, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng và để Đảng hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ của mình. Muốn vậy, Đảng phải tổ chức học tập lý luận, để mọi cán bộ, đảng viên thấm nhuần lý luận cách mạng, đặng hoàn thành tốt công việc của mình. “Đảng cần phải giáo dục và yêu cầu đảng viên ra sức học tập lý luận, mở rộng tự phê bình và phê bình, đấu tranh với những tư tưởng “phi vô sản”. Đảng phải chống cái thói xem nhẹ học tập lý luận. Vì không học lý luận thì chí khí kém kiên quyết, không trông xa thấy rộng, trong lúc đấu tranh dễ lạc phương hướng, kết quả là “mù chính trị”, thậm chí hủ hóa, xa rời cách mạng”(7). Đồng thời, việc quán triệt, thấu hiểu sâu sắc lý luận Mác - Lê-nin sẽ góp phần quan trọng vào việc bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, chống lại quan điểm xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Đối với sự hình thành nhân cách con người: Từ quan điểm muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người mới xã hội chủ nghĩa, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, con người mới xã hội chủ nghĩa phải là con người phát triển toàn diện, bao gồm đủ cả phẩm chất và năng lực, đức và tài, vừa “hồng” vừa “chuyên”. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên vai trò của lý luận đối với sự hình thành nhân cách con người. Lý luận trang bị cho con người tinh thần, cách thức và phương pháp xử lý công việc. Làm việc mà không có lý luận thì không khác gì đi mò trong đêm tối, vừa chậm chạp, vừa hay vấp váp. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Vì kém lý luận, cho nên gặp mọi việc không biết xem xét cho rõ, cân nhắc cho đúng, xử trí cho khéo. Không biết nhận rõ điều kiện hoàn cảnh khách quan, ý mình nghĩ thế nào làm thế ấy. Kết quả thường thất bại”(8). Con người có lý luận soi đường, sẽ hành động đúng, trở thành những công dân tốt, những cán bộ tốt, sẽ hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nêu lên vai trò của công tác lý luận đối với sự nghiệp cách mạng, đối với đường lối của Đảng và xây dựng con người.
Một là, công tác lý luận góp phần quan trọng vào việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng. Theo Người, công tác lý luận đúng đắn sẽ quyết định việc chiến thắng đối với mọi khuynh hướng, trường phái, học thuyết lý luận cơ hội, xét lại, xác lập hệ tư tưởng lý luận khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân.
Hai là, công tác lý luận góp phần tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin, các quan điểm, đường lối của Đảng trong toàn dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, “có nắm vững đường lối cách mạng mới thấy rõ phương hướng tiến lên của cách mạng, mới hiểu rõ mình phải làm gì và đi theo phương hướng nào để thực hiện mục đích của Đảng”(9).
Ba là, công tác lý luận góp phần tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, Theo Người, việc nắm vững lý luận sẽ giúp cho con người hành động đúng trong công việc thực tế, hiểu được mọi việc trong xã hội để chủ trương đúng và làm cho đúng; lý luận vững giúp cho con người vững vàng trước mọi thử thách, khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, không sợ sệt, rụt rè, chán nản lùi bước, vẫn giữ vững tinh thần; lúc gặp thuận lợi, thành công, không chủ quan, tự mãn, khiêm tốn.
Ý nghĩa quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của lý luận và công tác lý luận trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay
Tình hình thế giới hiện nay có những điểm nổi bật: Một là, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang tiếp tục phát triển với tốc độ nhanh, trình độ ngày càng cao, tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều nước. Nhân loại đang bước vào một thời kỳ lịch sử mà trong đó lao động trí tuệ hóa sẽ là lao động phổ biến và giữ vai trò quyết định sự phát triển xã hội. Hai là, quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa diễn ra mạnh mẽ, là một trong những xu thế lớn của tình hình thế giới. Xu thế này vừa đem lại thời cơ lớn, vừa mang lại những thách thức không nhỏ đối với mọi quốc gia. Ba là, hợp tác và phát triển là xu thế lớn, phát triển ngày càng mạnh mẽ, nó trở thành đòi hỏi bức xúc, là nguyện vọng chính đáng của các quốc gia, các dân tộc trên thế giới.
Tình hình thế giới đặt ra cho công tác lý luận của Đảng ta hàng loạt vấn đề mới mẻ cần phải nhận thức cho đúng, phù hợp với xu thế khách quan của sự phát triển, luận chứng những khả năng và điều kiện tác động của những xu thế ấy đối với thực tiễn đất nước ta. Đó là vấn đề giữ vững độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ với việc chấp thuận xu thế toàn cầu hóa, xu thế khu vực hóa, tùy thuộc lẫn nhau trong quan hệ quốc tế; là việc đòi hỏi phải nhanh chóng thích nghi với nền kinh tế thị trường thế giới hiện đại với yêu cầu bảo vệ được lợi ích quốc gia; đó là vấn đề mở cửa ra bên ngoài và hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện toàn cầu hóa; là vấn đề an ninh quốc gia với vấn đề hợp tác, phát triển; là ảnh hưởng tích cực của việc mở cửa với hậu quả tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa…
Tình hình trong nước, có những thuận lợi cơ bản: Một là, đường lối đổi mới của Đảng ta đúng đắn, hợp với lòng dân và thuận với trào lưu chung của thời đại. Thành tựu mà sự nghiệp đổi mới mang lại và chính sách rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại với tình thần Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển, đã làm tăng thêm bạn bè, tăng thêm uy tín và hình ảnh tốt đẹp của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hai là, xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển là dòng vận động chính của khu vực và thế giới, với việc gia tăng cả thế và lực, đất nước ta có đủ tiền đề thuận lợi để chuyển sang thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ba là, sự phát triển năng động của khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung và của khu vực Đông Nam Á nói riêng trong điều kiện toàn cầu hóa và khu vực hóa, trong bối cảnh của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ, là cơ sở để chúng ta tạo lợi thế mới, nguồn lực mới, đẩy mạnh nhịp độ phát triển nhanh và bền vững.
Tuy nhiên, chúng ta phải đối mặt với nhiều thách thức: Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa vẫn tiềm ẩn trong bản thân nền kinh tế thị trường, là miếng đất làm nảy sinh các khuynh hướng lệch lạc, các tiêu cực xã hội; Nguy cơ tụt hậu về kinh tế ngày càng nổi lên thành điều thách thức lớn đối với chúng ta; Tệ quan liêu, nạn tham nhũng gây tác hại trên các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, đạo đức và con người. Trong những năm qua, nguy cơ này có chiều hướng phát triển, gây nên bao nỗi nhức nhối đối với toàn xã hội, làm rạn nứt, mất lòng tin trong mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Bên cạnh đó, chúng ta phải luôn luôn đề phòng trước nguy cơ “diễn biến hòa bình”, thường xuyên đề cao cảnh giác, ngăn chặn kịp thời mọi âm mưu của các thế lực thù địch. Trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI, nước ta không phải chỉ đối mặt với những nguy cơ gay gắt nói trên, mà còn phải đối mặt với một tình hình đầy biến động. Hàng loạt vấn đề lý luận và thực tiễn của nước ta đặt ra đòi hỏi phải nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận nhằm đưa sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa tiến lên.
Về xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Đảng ta nhận định đó là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó xây dựng là gốc của bảo vệ, bảo vệ là bộ phận hợp thành của xây dựng. Trong điều kiện lịch sử mới, bảo vệ Tổ quốc không chỉ là bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, mà còn là bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa, giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trước hết, cần khẳng định rằng, Đảng ta luôn đề cao vai trò của lý luận và công tác lý luận, coi công tác lý luận là một nội dung quan trọng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đường lối đổi mới do Đại hội lần thứ VI đề ra, được các đại hội lần thứ VII, VIII, IX, X khẳng định và tiếp tục phát triển công tác lý luận, thể hiện quá trình đổi mới tư duy lý luận và công tác lý luận của Đảng ta. Hội nghị Trung ương lần thứ năm, khóa X (năm 2007) về công tác lý luận trước yêu cầu mới, nhấn mạnh ý nghĩa to lớn của công tác lý luận trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ta. Đảng ta chỉ rõ: Công tác lý luận là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng; là lĩnh vực trọng yếu để xây dựng, bồi đắp nền tảng chính trị của chế độ, tuyên truyền, giáo dục động viên và tổ chức nhân dân thực hiện các nhiệm vụ cách mạng, khẳng định và nâng cao vai trò tiên phong của Đảng về chính trị, lý luận, trí tuệ, văn hóa và đạo đức, thể hiện vai trò đi trước, mở đường cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác lý luận phải đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng. Công tác lý luận là một nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, phải bám sát yêu cầu, nhiệm vụ của hoạt động thực tiễn, những đòi hỏi, nguyện vọng bức thiết của nhân dân, điều quan trọng hơn là trên cơ sở đó, phải biết tiên lượng “vượt trước” sự vận động, phát triển của thực tiễn để vạch đường một cách đúng đắn cho những bước phát triển trong tương lai.
Khi bàn về nhiệm vụ chủ yếu của công tác lý luận trong tình hình mới, Đảng ta nhấn mạnh: “Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn đề về Đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi mới; không ngừng phát triển lý luận, đề ra đường lối và chủ trương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, khắc phục một số mặt lạc hậu, yếu kém của công tác nghiên cứu lý luận”(10). Công tác lý luận là một trong những nội dung quan trọng của nhiệm vụ xây dựng Đảng về chính trị, nhằm ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Chính vì vậy, nghiên cứu quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của lý luận và công tác lý luận và vận dụng vào tình hình thực tiễn hiện nay càng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết hơn bao giờ hết./.
-----------------------------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 2, tr. 289
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t. 2, tr. 279
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t. 5, tr. 273-274
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t. 8, tr. 276-277
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t. 2, tr. 289
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t. 12, tr. 563
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t. 8, tr. 280
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t. 5, tr. 274
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t. 15, tr. 115
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 49
PGS, TS. Nguyễn Thị Kim Dung
Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Theo Tạp chí Cộng sản điện tử
Đức Lâm (st)