Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Trong công cuộc kiến thiết đất nước ta, có bốn vấn đề cùng phải chú ý, cùng phải coi là quan trọng ngang nhau, không được xem nhẹ mặt nào, đó là: Kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 9, khóa XI, Đảng ta chỉ rõ: "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội"(1). Đây là một quan điểm lớn chỉ đạo công cuộc xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa ở nước ta hiện nay. Bài viết này bàn đến mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hoá trong tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời, nêu rõ sự vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng đó của Đảng ta trong phát triển kinh tế, văn hoá, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, thực hiện công bằng xã hội ở nước ta hiện nay.

1. Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, đồng thời là cơ sở để phát triển văn hoá, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội

Vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, mối quan hệ giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng, kết hợp với kinh nghiệm của cha ông ta trong cuộc sống để xây dựng chủ nghĩa xã hội,  Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế văn hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa kinh tế? Tục ngữ có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước một bước”(2). “Văn hoá là một kiến trúc thượng tầng; những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được và đủ điều kiện phát triển được”(3).

Nghĩa là, phát triển kinh tế cần đi trước một bước và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật là nhiệm vụ trung tâm trong suốt cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Phát triển kinh tế là tiền đề, là cơ sở cho sự phát triển văn hoá nhằm xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Trong thời kỳ kháng chiến, mặt trận chính của chúng ta là đánh giặc thực dân. Ngày nay, kinh tế là mặt trận chính của chúng ta “Tất cả phục vụ sản xuất. Nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của chúng ta hiện nay là phát triển sản xuất, để nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân. Muốn có chủ nghĩa xã hội thì không có cách nào khác là phải dốc lực lượng của mọi người ra để sản xuất. Sản xuất là mặt trận chính của chúng ta”(4).

Vận dụng và phát triển sáng tạo những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào phát triển kinh tế của Việt Nam, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta khẳng định: “Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ”(5).

Trong nhiệm vụ phát triển kinh tế, phải kết hợp hài hoà với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện vật chất bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội. Thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là động lực cho tăng trưởng kinh tế, ổn định. Theo đó, trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ năm 2011 đến năm 2020, Đảng ta xác định 5 quan điểm lớn về sự phát triển ở nước ta:

Một là, phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược.

Hai là, đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Ba là, mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển.

Bốn là, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Năm là, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng (6).

Quan điểm tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội phải được thực hiện trong toàn bộ quá trình và từng giai đoạn phát triển; thể hiện qua từng chính sách kinh tế lớn, nhỏ, trên phạm vi toàn quốc cho tới từng địa phương, các chính sách kinh tế gắn chặt với chính sách văn hóa, xã hội. Phát triển kinh tế là cơ sở để phát triển văn hóa. Song văn hóa có tác động ngược trở lại với kinh tế, định hướng và chi phối kinh tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch rõ: Cần coi văn hóa có quan hệ chặt chẽ với kinh tế và chính trị; văn hóa không thể đứng ngoài mà phải đứng trong kinh tế và chính trị. Do đó, Đảng ta chủ trương: "Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế"(7). Và "Con người thực sự là trung tâm trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội"(8).

2. Nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học là mục tiêu của phát triển kinh tế và phát triển bền vững

Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, trong bài phát biểu tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, ngày 10/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch rõ mục tiêu phát triển kinh tế của ta là vì con người có cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc. Muốn vậy, con người cần có đủ điều kiện về ăn, ở, mặc, học hành để có văn hóa. Cho nên, mục tiêu trước mắt của nhiệm vụ phát triển kinh tế ở nước ta lúc đó là: 1) làm cho dân có ăn; 2) làm cho dân có mặc; 3) làm cho dân có chỗ ở; 4) làm cho dân có học hành. Phát triển kinh tế, diệt giặc đói, đồng thời phải diệt giặc dốt. Vì một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Muốn thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu và yếu hèn, phải phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa.

Văn hoá cần được phát triển ngay trong quá trình phát triển kinh tế, là mục tiêu của quá trình phát triển kinh tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân”(9), “Phát triển kinh tế và văn hóa để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ta”(10). Người vạch rõ mục tiêu văn hóa trong chính sách kinh tế của Nhà nước ta: “Chính sách kinh tế của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là không ngừng phát triển sản xuất để nâng cao mãi đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân”(11).

Người nói: “Chủ nghĩa xã hội là công bằng hợp lý: Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng. Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm nom”(12). Có hai điều phải luôn luôn nhớ: Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; không sự nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên. Tư tưởng đó của Người đến nay vẫn giữ nguyên tính thời sự. Bởi thế giới ngày nay, sau sự sụp đổ của nhiều mô hình quản lý kinh tế với những cuộc khủng hoảng mang tính toàn cầu, với hàng loạt sự trả giá nặng nề do phát triển kinh tế không được đặt trong mối quan hệ gắn bó với phát triển văn hóa, vì con người, tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường sống, đã đặt ra cho nhân loại một phương hướng phát triển mới: Phát triển bền vững.

Về khái niệm phát triển bền vững, đến nay còn có nhiều cách tiếp cận khác nhau tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia, khu vực. Nhưng, hiểu một cách chung nhất thì phát triển bền vững là sự phát triển về mọi mặt trong hiện tại vẫn bảo đảm sự tiếp tục phát triển trong tương lai xa. Trong tăng trưởng kinh tế có sự nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất, kinh doanh, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Ở nước ta, phát triển bền vững cần phải dựa trên 4 trụ cột: Kinh tế tăng trưởng; bảo vệ môi trường; bảo đảm an sinh xã hội và ổn định chính trị - xã hội, giữ vững an ninh - quốc phòng.

Quan điểm của Đảng về phát triển bền vững trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta là:

- Phải phát triển bền vững về kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức.

- Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.

- Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.

- Phải đặc biệt coi trọng giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ để bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững.

Như vậy, trong quan điểm của Đảng, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là một điều kiện quan trọng để có sự phát triển bền vững của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là phương hướng cơ bản phát triển đất nước ta hiện nay.

 3. Nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học là một động lực quan trọng nhất trong phát triển kinh tế và phát triển bền vững

Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch rõ, văn hóa không thể đứng ngoài chính trị và kinh tế. Phát triển văn hóa phải gắn liền với phát triển kinh tế; văn hóa là một động lực tinh thần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển một cách bền vững: “Văn hóa phải gắn liền với lao động sản xuất. Văn hóa xa đời sống, xa lao động là văn hóa suông. Nhiệm vụ của người cán bộ văn hóa là phải dùng văn hóa để tuyên truyền cho việc cần kiệm xây dựng nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xã hội”(13).

Muốn phát triển kinh tế mạnh mẽ, phải quan tâm đến động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Con người có văn hóa, tư tưởng tiến bộ chính là một động lực quan trọng thúc đẩy toàn dân hăng hái tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Vô luận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả"(14). Con người là vốn quý nhất,  “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa... có tư tưởng và tác phong xã hội chủ nghĩa”(15).

 Nền văn hóa và con người với những giá trị, chuẩn mực xã hội phù hợp với bản sắc dân tộc và yêu cầu thời đại không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực của sự phát triển kinh tế và phát triển bền vững. Trong thời đại ngày nay, nguồn gốc của sự giàu có không chỉ là tài nguyên thiên nhiên, vốn, kỹ thuật mà yếu tố ngày càng quan trọng và quyết định là nguồn lực con người, là tiềm năng sáng tạo của con người. Tiềm năng này nằm trong nền văn hóa, trong trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, nhân cách, lý tưởng, lối sống, ý chí, nghị lực, tài năng và sự thành thạo công việc của mỗi cá nhân và cả quốc gia dân tộc. Xét đến cùng, tài nguyên quý nhất, cái vốn quý nhất, sức mạnh nội sinh của một quốc gia là văn hóa, là con người, là nguồn lao động chất lượng cao, là nhân tài trong kinh tế tri thức, trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Không ít quốc gia giàu tài nguyên thiên nhiên nhưng rất nghèo đói. Trái lại có quốc gia tài nguyên thiên nhiên rất nghèo nhưng kinh tế lại rất giàu chính là nhờ coi trọng phát triển văn hóa, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, nghĩa là rất coi trọng văn hóa và nhân tố con người. Vì vậy, Đảng ta khẳng định: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(16).

4. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực và nguồn lực nội sinh quan trọng cho phát triển bền vững đất nước

 Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, nhân tố con người và vai trò của văn hóa, tư tưởng trong cách mạng và xây dựng xã hội mới, nên sớm có tư tưởng về vai trò của văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Người khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa và có tư tưởng xã hội chủ nghĩa”(17). Coi trọng xây dựng nền văn hóa mới, con người mới, coi những phẩm chất cơ bản của văn hóa và đạo đức là nền tảng của đời sống xã hội mới. Người chỉ rõ: “Cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của đời sống mới, nền tảng của thi đua ái quốc”(18), “Văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi”(19). Phải làm cho văn hóa thấm sâu trong tâm lý quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ; gây dựng được tâm lý quốc dân lấy tự do độc lập làm gốc. Văn hóa phải làm cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do. Đồng thời, văn hóa phải làm cho quốc dân có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng mình. Đối với xã hội, văn hóa làm cho mỗi người dân Việt Nam từ già đến trẻ, cả đàn ông và đàn bà ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình và biết hạnh phúc của mình nên được hưởng. Văn hóa với tư cách là sức mạnh mềm, sức mạnh nội sinh, nền tảng tinh thần của một dân tộc, đóng vai trò to lớn thúc đẩy sự phát triển của cả dân tộc nói chung và của nền kinh tế nói riêng.

Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế và văn hóa, đến Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 5 khóa VIII, Đảng ta khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là động lực vừa là mục tiêu thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội”(20). Tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII, Hội nghị Trung ương 10 khóa IX tiếp tục phát triển quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế, văn hóa, Đảng ta đã nêu ra luận điểm xác định rõ vị trí, vai trò và sự gắn kết giữa 3 nhiệm vụ lớn: “Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước”(21).

Đến Nghị quyết Trung ương lần thứ 9, khóa  XI Đảng ta đã chỉ rõ, xây dựng văn hóa trong chính trị cần: Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể; coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Trong đó, trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức, tận tụy hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân; có ý thức thượng tôn pháp luật, dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương; tự do cá nhân gắn với trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân. Ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên”(22). Đồng thời, thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế. Con người thực sự là trung tâm trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Tạo lập môi trường văn hóa pháp lý, thị trường sản phẩm văn hóa minh bạch, tiến bộ, hiện đại để các doanh nghiệp tham gia xây dựng, phát triển văn hóa. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với ý thức tôn trọng pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh, vì sự phát triển bền vững và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy ý thức và tinh thần dân tộc, động viên toàn dân, trước hết là các doanh nghiệp, doanh nhân xây dựng và phát triển các thương hiệu Việt Nam có uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế.

 Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế và văn hóa, cần quán triệt sâu sắc và thực hiện tốt hơn định hướng kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, xây dựng con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Muốn vậy, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới phát triển văn hóa và con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; mỗi chính sách văn hóa, xây dựng con người, mỗi việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội đều phải góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Bất cứ một sự sai sót hay thiên lệch về phía kinh tế hay văn hóa, con người, tiến bộ và công bằng xã hội trong hoạch định và thực thi các chính sách của Đảng, Nhà nước đều sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nói chung, cũng như đối với từng lĩnh vực cụ thể. Bởi vì các mục tiêu này có mối quan hệ biện chứng, có sự tác động qua lại lẫn nhau trong quá trình phát triển.

PGS, TS. Nguyễn Thế Thắng
- Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh khu vực I

Ghi chú:

 (1),(7),(8),(16),(22) Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.  

http://123.30.190.43/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang/details.asp?topic=191&subtopic=9&leader_topic=990&id=BT1261456140

(2), (10),(11),(13),(17) Hồ Chí Minh, toàn tập, tập12, Nxb CTQG, H.2011, tr.470; tr.470; tr.372; tr.470; tr.604.

(3) Hồ Chí Minh: Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận, Nxb Văn học, H.1981, tr.345.

(4),(9),(15) Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.2011, tr.68; tr.387; tr.66.

(5),(6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr.75; tr 98-102.

(12) Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 11, Nxb CTQG, H.2011, tr.404.

(14) Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H.2011, tr.281.

(18) Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, H.2011, tr.117.

(19) Hồ Chí Minh: Về công tác văn hoá, văn nghệ, Nxb Sự thật (xuất bản lần thứ hai) 1977, tr.90.

(20) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb CTQG, H.1998, tr.55.

(21) Kết luận Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII); http://dangcongsan.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30525&cn_id=39678.

Nguồn: tcnn.vn

Kim Chi (st)

Bài viết khác: