Bác Hồ thường căn dặn mọi người phải thực hành tiết kiệm, tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thời giờ, tiền bạc; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, không xa xỉ, hoang phí, không bừa bãi, phô trương hình thức. Bác đã sống cả cuộc đời thanh bạch từ ăn, ở đến phương tiện sử dụng phục vụ công việc hàng ngày.

Sinh thời, để tiết kiệm thời gian, Bác dạy: “Ai mang vàng vứt đi là người điên rồ. Ai mang thời giờ vứt đi là người ngu dại”, “Từ Chủ tịch Chính phủ cho đến người chạy giấy, người quét dọn trong một cơ quan nhỏ, đều là những người ăn lương của dân, làm việc cho dân... làm việc phải đến đúng giờ, chớ đến trễ về sớm... Phải nhớ rằng: Dân đã lấy tiền mồ hôi nước mắt để trả lương cho ta trong những giờ đó. Ai lười biếng tức là lừa gạt dân”. 

Nhà ở của Bác chỉ là một ngôi nhà sàn gỗ lợp ngói, trên gác có hai phòng mỗi phòng hơn 10m2, vậy mà, Bác đề nghị để đồng chí Phạm Văn Đồng sử dụng một phòng để khỏi lãng phí. Một Tổng Biên tập nước ngoài được Bác tiếp tại nơi đó đã kể lại: “Chúng tôi được dẫn vào tầng dưới ngôi nhà sàn của Bác Hồ. Chúng tôi đợi Người ở đấy. Tôi còn kịp lướt nhìn mọi thứ được xếp đặt trong phòng khách của Người. Gọi là phòng khách của vị nguyên thủ quốc gia mà thật vô cùng giản dị, có lẽ không khác những gian nhà của nông dân Việt Nam mà tôi có dịp tới. Trong gian phòng này có lẽ chỉ có bộ bàn ghế mây được coi là nổi bật”.

Bữa ăn của Bác như bữa ăn của mọi nhà: Bát canh, quả cà, con cá kho, hoặc lát thịt kho. Bác luôn nghĩ đến người nghèo “lúc chúng ta nâng bát cơm ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi đề nghị với đồng bào cả nước và tôi xin thực hành trước, cứ 10 ngày nhịn ăn 1 bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa 1 bơ) để cứu dân nghèo”. Một hôm, Bác đi họp ở đâu về, sợ Bác đói, nhà bếp vẫn để dành cơm cho Bác, nhưng Bác kiên quyết từ chối không ăn, mặc dầu Bác chưa ăn cơm. Vì hôm đó đúng bữa nhịn của Bác để góp vào hũ gạo tiết kiệm.

Khi ăn, không bao giờ Bác để rơi cơm. Đồng chí Phạm Văn Đồng có lần kể: Ăn cơm với Cụ hàng trăm lần, lần nào cũng thấy Cụ tém vén không để rơi một hạt cơm. Bởi vì Cụ trọng và tiết kiệm công sức của người làm ra lúa gạo. Chuyện nhỏ, đức lớn hài hoà ở một con người.

Khi dùng các món ăn bao giờ Bác cũng dùng hết, không để thừa lãng phí. Hồi 1957, Bác về thăm quê, lần ăn cơm với lãnh đạo tỉnh, khi đưa thêm các món ăn, Bác gạt đi: Dùng hết lấy thêm, đừng để người khác ăn thừa của mình.

15 năm cuối ở Hà Nội, lúc dân đói, kinh tế còn khó khăn, Bác đã thực hiện: Chiều thứ 7 hàng tuần ăn cháo để tiết kiệm thêm một chút gạo cho người nghèo. Dân, cán bộ ăn cơm độn ngô, khoai, sắn bao nhiêu phần trăm, thì Bác cũng thực hiện bấy nhiêu phần trăm giống như cán bộ, như dân. Khi đi công tác, Bác mang cơm nắm với muối vừng.

Một đồng chí ở Hội Luật gia Việt Nam kể lại: Đến Hội nghị Tư pháp toàn quốc năm 1950, Bác không cho Hội nghị làm cơm mời Bác. Buổi trưa, Bác bày ra bãi cỏ nắm cơm, lọ cà, lọ thịt kho và cho gọi tôi cùng ăn. Tôi gắp miếng thịt nhai không đứt, phải dúi xuống cỏ. Bác mang cơm nắm, vì rằng: Bác dặn đồng chí phục vụ đi công tác nắm cơm ở nhà đi. Trên đường tính toán đến giờ ăn dừng lại chỗ nào đó giữa đường, Bác cháu ăn với nhau. Đến nơi nói với địa phương Bác ăn cơm rồi, Bác thích thế, đỡ phiền bữa cơm, mất thời giờ của mọi người. Bác nói: Người ta dọn ra một bữa cơm sang, có khi Bác chẳng ăn đâu, nhưng rồi để lại cái tiếng đấy. Bác Hồ đến thăm cũng làm một bữa cơm sang, cũng điều người này, người khác từ giao tế sang, chuẩn bị cả buổi. Thế là tự Bác bao che cho cái chuyện xôi thịt. Như thế nắm cơm theo ăn cho tiện, ăn no rồi đến làm việc.

Bác còn chỉ thị cho những người phục vụ: Vá khăn mặt cho Bác, vá áo lót cho Bác, vá chiếu nằm cho Bác. Có lần, khi tất rách chưa kịp vá, anh em đưa đôi mới để Bác dùng. Bác cầm đôi tất xoay chỗ rách vào bên trong người Bác, rồi cười: Đấy có trông thấy rách nữa đâu... Những việc này thật quá bình thường. Nhưng trên đời này không ai làm được những điều bình thường ấy. Bác làm những điều bình thường ấy có làm cho Bác nhỏ bé đi đâu.

Mùa đông, Bác Hồ có một cái áo bông của đồng bào biếu. Bác dùng nhiều năm, mền bông xẹp xuống không ấm nữa. Nhưng không ai dám nghĩ đến việc xin Bác bỏ mền bông đi, chỉ nghĩ đến việc thay vỏ ngoài. Vì dùng mãi vỏ áo đã đứt chỉ ở khuỷu tay và ở cổ. Bác bảo mạng nó lại. Nó rách ở vai thì Bác bảo vá vai, đến khi nó rách lần hai, đồng chí phục vụ xin cho thay vỏ ngoài, Bác bảo: Này chú ạ, Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước mặc áo vá vai thế này là cái phúc của dân đấy, đừng bỏ cái phúc đó đi.

Bác mặc bộ quần áo ka ki đã sờn cổ, sờn tay, xin được thay bộ khác, Bác bảo: Nếu thi sang thì thua, thi tiết kiệm thì thắng. Bác mặc như thế phù hợp với hoàn cảnh của nước của dân không phải thay. Xưởng may X biếu Bác bộ quần áo ka ki mới, Bác nhận, nhưng rồi Bác lại gửi lại xưởng may để làm phần thưởng thi đua.

Nhớ lại lần Bác sang thăm In-đô-nê-xi-a, đồng chí bảo vệ được cùng đi với Bác, và đồng chí đã sắm bộ com-lê mới. Sang bên đó, đồng chí mặc nó, thấy vậy, Bác nói với đồng chí rằng: Không phải Bác không muốn các chú ăn sang, mặc đẹp, nhưng lương của các chú có hạn, cái sang, cái đẹp dễ biến thành nô lệ của nó.

Ô tô phục vụ Bác là chiếc Pô bê đa (Thắng lợi) của Liên Xô trước đây. Đã nhiều lần Trung ương xin thay ô tô khác, nhưng Bác bảo ô tô là phương tiện phục vụ cho công việc, chứ không phải là sự phân biệt cấp bậc, chức tước, ô tô phục vụ Bác còn dùng được, không phải thay. Và một lần chiếc ô tô phục vụ Bác bị lão hoá ở vòng tay lái, toả mùi cao su khó chịu nhưng chưa kịp sửa, thì đúng lúc Bác có việc phải đi, đồng chí bảo vệ lấy chút nước hoa vẩy vào trong xe để át mùi cao su. Khi Bác lên ô tô phát hiện có mùi nước hoa, Bác tỏ ý không vui. Bác bảo: Không phải Bác không thích nước hoa, nhưng nhân dân mình còn nghèo khổ. Vị Chủ tịch của những người nghèo khổ dùng nước hoa sao đành.

Bác tiết kiệm đến cái nhỏ như tờ giấy: “Giấy bút, vật liệu đều tốn tiền của Chính phủ, tức là của dân; ta cần phải tiết kiệm. Nếu một miếng giấy nhỏ đủ viết, thì chớ dùng một tờ to. Một cái phong bì có thể dùng hai, ba lần”. Và Bác đã làm để mọi người bắt chước là hàng ngày các văn bản Bác đều viết ở mặt sau của bản tin Thông tấn xã Việt Nam; còn phong bì Bác đều dùng lại phong bì của các nơi gửi tới đến hai, ba lần.

Làm được những việc nhỏ thì sẽ thành cái to như Bác đã chỉ rõ “nơi nào cũng tiết kiệm một chút, thì trong một năm đỡ được hàng vạn tấn giấy, tức là hàng triệu đồng bạc. Nhờ tiết kiệm...mà lợi cho dân rất nhiều”. Qua những việc làm đó mà một chính khách nước ngoài được gặp Bác từ năm 1951 đã nói: Tôi hiếm khi được gặp một người sống thanh đạm đến thế và khinh thường mọi xa hoa đến thế.

            Bác đã dạy: “Người ta ai cũng muốn ăn ngon, mặc đẹp, nhưng phải đúng thời, đúng hoàn cảnh. Trong lúc nhân dân còn khó khăn, một người nào đó muốn sống hưởng ăn ngon, mặc đẹp thì không có đạo đức”. Và Bác thường xuyên nhắc nhở phải coi đạo đức là cái gốc của người cách mạng, của con người, phải thực hành cần, kiệm, liêm, chính. Người chỉ rõ: “Một dân tộc biết cần, kiệm, liêm, chính là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, một dân tộc văn minh tiến bộ”.

Ôn lại những điều cụ thể trên đây về cuộc sống tiết kiệm của Bác, như đồng chí Phạm Văn Đồng đã nói: Chớ có hiểu lầm rằng, Bác Hồ sống khắc khổ theo kiểu nhà tu hành, thanh tao theo kiểu nhà hiền triết ẩn dật. Bác Hồ sống tiết kiệm, thanh bạch trong đời sống và cuộc đấu tranh gian khổ, ác liệt của quần chúng nhân dân. Đời sống vật chất càng giản dị thì càng phù hợp với đời sống tâm hồn phong phú, với những tình cảm, những giá trị tinh thần cao đẹp nhất. Đó là cuộc sống thật sự văn minh mà Bác Hồ đã nêu gương sáng.

Và cũng chính vì thế, lịch sử biến thiên, nhưng Bác Hồ vẫn sống mãi. Tuy Bác đã đi xa, nhưng con cháu Bác vẫn hàng ngày tìm về cái đẹp cuộc đời Bác nêu gương để chau chuốt cái đẹp cho đời. “Học tập, làm theo tấm gương đạo đức Bác Hồ” chính là học tập và làm theo những mẫu mực cao đẹp đó của Người. 

Theo TS. Trần Viết Hoàn

Nguyên Giám đốc Khu di tích Phủ Chủ tịch/ VietNamnet

Tâm Trang (st)

 

 

 

Bài viết khác: