Trong Nghị quyết số 26-NQ/TƯ của Hội nghị Trung ương 7 Khóa XII, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ vào xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, đặc biệt là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Triển khai thực hiện thành công Nghị quyết này sẽ đáp ứng được những đòi hỏi về cán bộ và công tác cán bộ trong tình hình mới, góp phần quan trọng để sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Ngày 19/5/2018, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XII) đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TƯ Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Lần đầu tiên sau 20 năm kể từ Nghị quyết số 03-NQ/TƯ của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa VIII) về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đã được Trung ương đề cập một cách toàn diện, sâu sắc với nhiều đổi mới quan trọng, đột phá. Để quán triệt và tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 26-NQ/TƯ, chúng ta cần vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ phù hợp thời kỳ đổi mới đất nước.

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ

Theo Hồ Chí Minh, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”(1),“muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”(2). Vì vậy, Người yêu cầu, cán bộ phải đáp ứng được những tiêu chuẩn về tư cách, phẩm chất, năng lực. Trong đó, về tư cách, cán bộ phải là người có tư cách đạo đức trong sáng, gương mẫu. Người căn dặn: Cán bộ phải suốt đời phấn đấu hy sinh cho lý tưởng của Đảng. Người cán bộ phải đặt quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc lên trên hết và lên trước hết. Đồng thời, phải có một đời tư trong sáng, phải là một tấm gương sáng trong cuộc sống. Người đề ra yêu cầu người cán bộ cách mạng: “Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính. Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ. Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành. Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép. Đối với công việc, phải tận tuỵ. Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo”(3). Thực hiện hài hòa những mối quan hệ cơ bản đó sẽ đem lại lợi ích lớn cho cán bộ, đó là được việc và được lòng người. Bởi lẽ, “Đảng viên, cán bộ và lãnh tụ khác với những người thường. Họ là những người chiến sĩ tiên phong của giai cấp, của dân tộc. Vì vậy, họ hoàn toàn không được đại biểu cho lợi ích cá nhân, mà phải đại biểu lợi ích của dân tộc, của giai cấp”(4).

Đối với tiêu chuẩn về phẩm chất, năng lực của người cán bộ, Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ phải có đạo đức cách mạng. Đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh là: Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Người khẳng định: “Cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của Đời sống mới, nền tảng của Thi đua ái quốc”(5). Trong Di chúc (1969), Người căn dặn: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”(6). Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng vẻ vang của mình, Hồ Chí Minh không chỉ rèn luyện và giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên mà bản thân Người là một tấm gương mẫu mực tự thực hiện những tư tưởng và khát vọng đạo đức do chính mình đề ra. Người cho rằng, bên cạnh tiêu chuẩn về đạo đức, cán bộ phải có năng lực đáp ứng được yêu cầu công việc. Cán bộ chẳng những thạo về chính trị, mà còn phải giỏi về chuyên môn; cán bộ, đảng viên “phải chịu khó học tập chính trị, kinh tế, khoa học, kỹ thuật để nâng cao năng lực, làm cho kinh tế phát triển, chiến đấu thắng lợi, đời sống của nhân dân ngày càng no ấm, tươi vui”(7). Cán bộ cách mạng phải là người hội tụ cả đức lẫn tài để đảm đương trọng trách mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó; lãnh đạo nhân dân, tổ chức thực hiện thành công đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong từng thời kỳ cách mạng.

Về công tác cán bộ, Hồ Chí Minh luôn coi việc xây dựng đội ngũ và huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng. Người đề ra nhiệm vụ đào tạo, huấn luyện, bố trí và sử dụng cán bộ phù hợp với năng lực và yêu cầu của thực tiễn cách mạng. Ngay từ năm 1920, khi trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước tại Việt Nam để chuẩn bị nền tảng về lý luận cho sự ra đời của Đảng. Người lập ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên năm 1925, tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu (Trung Quốc); gửi cán bộ đi học tại trường Đại học Phương Đông (Liên Xô) và trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc). Khi Đảng ra đời năm 1930, Người tiếp tục quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ, đảng viên; trực tiếp viết thư gửi Quốc tế Cộng sản đề nghị được giúp đỡ, đào tạo lý luận cho đội ngũ cán bộ cách mạng Việt Nam.

Theo Hồ Chí Minh, mục đích của đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là xây dựng một đội ngũ cán bộ vừa hồng, vừa chuyên, có đủ khả năng để gánh vác sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Người coi trọng đào tạo, huấn luyện toàn diện, trên tất cả các mặt, các lĩnh vực để cán bộ thật sự trưởng thành và làm tròn vai trò, bổn phận của mình đối với Đảng, với nhân dân. Trong đó, có 4 nội dung quan trọng người cán bộ cách mạng cần tích cực rèn luyện, học tập, đó là: Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin; phương pháp, cách thức làm việc hiệu quả, hợp lý; vốn tri thức - kiến thức của dân tộc, nhân loại và năng lực, trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ. Người ví việc tu dưỡng, rèn luyện của mỗi con người, mỗi cán bộ, đảng viên “cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”(8). Chỉ có sự nỗ lực học tập, rèn luyện không ngừng mới đem lại tiến bộ cho con người cũng như mang lại hiệu quả cho công việc chung của tập thể.

Đối với công tác bố trí, sử dụng cán bộ, Hồ Chí Minh cho rằng phải trọng dụng nhân tài, trọng cán bộ. Muốn vậy, phải biết rõ cán bộ; phải cất nhắc cán bộ một cách cho đúng; phải khéo dùng cán bộ; phải phân phối cán bộ cho đúng; phải giúp cán bộ và giữ gìn cán bộ. Việc xem xét, đánh giá cán bộ thường xuyên giúp cho phát hiện những người tài, người có ích và làm lộ ra những người hủ hóa. Cất nhắc cán bộ dựa trên sự tin cậy, gần gũi và làm được việc, khiến cho quần chúng tin yêu, mến phục. Khéo dùng cán bộ thì giúp phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm cho họ, bởi lẽ nhân vô thập toàn, không có ai cái gì cũng tốt và cái gì cũng hay, nên tùy tài mà dùng người. Phân phối cán bộ cho đúng thì phải dùng đúng người vào đúng chỗ và giao đúng việc, có như thế công việc mới trôi chảy. Cách dùng người theo kiểu “dụng nhân như dụng mộc” của Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ phát huy tối đa những tiềm năng, thế mạnh để cống hiến sức lực, trí lực và tâm lực cho Đảng, cho nhân dân.

Tựu chung lại, những luận điểm trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ là cơ sở để Đảng nghiên cứu, vận dụng vào thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ đáp ứng được những yêu cầu cấp thiết đặt ra trong giai đoạn cách mạng hiện nay

2. Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 Khóa XII

Cán bộ cấp chiến lược là bộ phận nằm ở thượng đỉnh của tháp nhân sự, giữ các vị trí trọng yếu mang tính quyết định toàn cục sự nghiệp cách mạng. Theo đó, đội ngũ cán bộ cấp chiến lược được xác định là lãnh đạo các cơ quan Trung ương, các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương, thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý. Đây là đội ngũ có vai trò quyết định và giải quyết những vấn đề chiến lược của Đảng, Nhà nước, quốc gia, dân tộc; có ảnh hưởng lớn đến tất cả các khâu trong công tác cán bộ của Đảng. Họ là những người trực tiếp ra quyết sách lãnh đạo, chỉ đạo việc thực thi một cách đúng đắn cương lĩnh, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước.

Thực tế, ngay từ Nghị quyết Trung ương 3 (Khóa VIII) về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trên cơ sở Cương lĩnh 1991, Đảng đã nhận thức rất rõ tầm quan trọng của công tác cán bộ thông qua việc xây dựng quan điểm chỉ đạo; các mục tiêu, tiêu chuẩn cán bộ và những giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sau 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (Khóa VIII), căn cứ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Trung ương ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TƯ nhằm tổng kết, đánh giá những thành tựu, hạn chế của công tác cán bộ và đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đáp ứng được yêu cầu thời đại. Bên cạnh những mặt tích cực đạt được, Nghị quyết đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, yếu kém trong xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ cấp chiến lược, cần phải có những giải pháp hữu hiệu khắc phục ngay. Đó chính là đội ngũ cán bộ hiện nay đông nhưng chưa mạnh; thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều; nhiều cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp, làm việc không đúng chuyên môn, sở trường; trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế còn nhiều hạn chế. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm... Trong khi đó, công tác cán bộ còn nhiều hạn chế, bất cập. Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chậm đổi mới. Việc sắp xếp, bố trí, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử vẫn còn tình trạng đúng quy trình nhưng chưa đúng người, đúng việc...

Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém được Trung ương chỉ ra trong Nghị quyết số 26-NQ/TƯ, đó là: Nhận thức và ý thức trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức Đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị còn hạn chế; công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chưa nghiêm túc, đầy đủ; tiêu chí và cơ chế, chính sách đối với cán bộ còn nhiều bất cập; phân công, phân cấp, phân quyền còn lỏng lẻo dẫn tới chưa kiểm soát chặt chẽ quyền lực; chưa phát huy được vai trò giám sát, phản biện xã hội của các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân; cơ quan tham mưu về tổ chức, cán bộ còn chồng chéo chưa phát huy hết hiệu lực, hiệu quả...

Để khắc phục những hạn chế vừa nêu, đồng thời phát huy những kết quả đạt được trong Chiến lược cán bộ và kế thừa những tinh hoa trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ, Nghị quyết số 26-NQ/TƯ xác định, xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược được coi là một trọng tâm trong công tác cán bộ và là vấn đề hệ trọng của Đảng: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu then chốt của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững”(9). Đây chính là quan điểm có ý nghĩa sâu sắc về khoa học, lý luận và thực tiễn về công tác cán bộ của Đảng và Nhà nước ta; cũng là điểm mới có tính đột phá về tư duy của Đảng về công tác cán bộ.

Nghị quyết nhấn mạnh các quan điểm có tính nguyên tắc: Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị; tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, thường xuyên đổi mới công tác cán bộ phù hợp với tình hình thực tiễn; quán triệt nguyên tắc về quan hệ giữa đường lối chính trị và đường lối cán bộ; quan điểm giai cấp và chính sách đại đoàn kết rộng rãi trong công tác cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trực tiếp là của các cấp ủy, tổ chức đảng mà trước hết là người đứng đầu và cơ quan tham mưu của Đảng, trong đó cơ quan tổ chức, cán bộ là nòng cốt. Các quan điểm đã phản ánh trình độ khái quát hóa thực tiễn và tổng kết lý luận cao, làm cơ sở để đề ra các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp giải quyết những vấn đề phát sinh trong thực tiễn công tác cán bộ.

Để xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, trên sơ sở vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh và quán triệt tinh thần Nghị quyết số 26-NQ/TƯ, chúng ta cần thực hiện đồng bộ những giải pháp cấp thiết sau:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức của cấp ủy, tổ chức đảng, mà trước hết là những người đứng đầu và các cơ quan tham mưu của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ

Nghị quyết 26 khẳng định nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược là trọng tâm trong công tác cán bộ và là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, mà trước hết là trách nhiệm của người đứng đầu và cơ quan tham mưu của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ. Người đứng đầu cấp ủy Đảng, chính quyền và các cơ quan tham mưu trực tiếp về công tác tổ chức cán bộ cần quan tâm thường xuyên, liên tục tới công tác cán bộ, từ khâu đầu tiên là đánh giá, tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đến giới thiệu, đề bạt, bổ nhiệm, sử dụng và đãi ngộ cán bộ. Đội ngũ tham mưu phải khách quan, tận tâm, tận lực tham mưu cho Đảng những giải pháp thu hút và chiêu mộ được những người có tâm, có tài tham gia vào bộ máy chính trị và đóng góp cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Quá trình tiến hành xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược phải được thực hiện thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Tinh thần khoa học và thận trọng biểu hiện qua việc nghiên cứu cụ thể, kỹ lưỡng tình hình thực tế tại mỗi địa bàn, mỗi lĩnh vực; đánh giá đúng những mặt tích cực và hạn chế của công tác cán bộ để tiến hành tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận về cán bộ và công tác cán bộ cấp chiến lược. Việc nghiên cứu, tổng kết thực tiễn là động lực, mục đích và là cơ sở cho việc nhận thức được những nguyên tắc, quan điểm, phương pháp xây dựng và tổ chức đội ngũ cán bộ cấp chiến lược một cách khoa học, hợp lý. Căn cứ nhận thức về thực tiễn sinh động, khái quát thành cơ sở lý luận về cán bộ giúp Đảng hoạch định những chiến lược mới, chính sách mới phù hợp với tình hình thực tế đất nước; sớm khắc phục những hạn chế trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một số nội dung trong nghị quyết, kết luận của Trung ương về công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ; xây dựng được tiêu chí, cơ chế hiệu quả để đánh giá đúng cán bộ, tạo động lực, bảo vệ cán bộ và thu hút, trọng dụng nhân tài; phát huy vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.

Thứ hai, các cơ quan tham mưu của Đảng tiếp tục nghiên cứu, bổ sung bộ tiêu chuẩn, tiêu chí của cán bộ cấp chiến lược phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới làm căn cứ để bố trí và sử dụng cán bộ

Nghị quyết số 26-NQ/TƯ nêu rõ: “Tập trung xây dựng Ban Chấp hành Trung ương theo hướng nâng cao chất lượng, có số lượng và cơ cấu hợp lý, thực sự tiêu biểu về đạo đức cách mạng, bản lĩnh chính trị, trí tuệ, trong sáng, gương mẫu về mọi mặt”(10)... Cán bộ cấp chiến lược phải có năng lực chính trị vượt trội, với tầm nhìn và năng lực hành động vĩ mô, có như vậy, công việc lãnh đạo, định hướng cả hệ thống, bộ máy mới trôi chảy, sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước mới thu được thành quả lâu dài và bền vững. Nghiên cứu, xây dựng được hệ thống tiêu chuẩn cán bộ cấp chiến lược thật cụ thể và tỷ mỷ trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn một cách khoa học.

Trung ương đã vận dụng các tiêu chuẩn về phẩm chất, năng lực người cán bộ cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh thành các tiêu chuẩn cụ thể cho cán bộ cấp chiến lược trong giai đoạn hiện nay, đó là: Tuyệt đối trung thành với lợi ích của Đảng, của quốc gia - dân tộc và nhân dân; kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu lý tưởng về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Có tinh thần yêu nước nồng nàn, sâu sắc; sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân... Là mẫu mực về phẩm chất đạo đức; sống trung thực, khiêm tốn, chân thành, trong sáng, giản dị, bao dung; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Tuyệt đối không tham vọng quyền lực; là trung tâm đoàn kết, gương mẫu về mọi mặt. Trình độ cao về chuyên môn, chính trị, quản lý nhà nước; trình độ ngoại ngữ, tin học phù hợp. Có tư duy đổi mới, tầm nhìn chiến lược; phương pháp làm việc khoa học; nhạy bén chính trị; có năng lực cụ thể hóa và lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; có năng lực tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận; có khả năng phân tích và dự báo tốt. Năng động, sáng tạo, cần cù, chịu khó, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; gắn bó mật thiết với nhân dân và vì nhân dân phục vụ. Là hạt nhân quy tụ và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị; được cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân tin tưởng, tín nhiệm cao...

Trên cơ sở các tiêu chí đề ra, phải đánh giá xuyên suốt cả quá trình phấn đấu, trưởng thành, đánh giá liên tục, đa chiều và công khai kết quả. Bảo đảm yêu cầu “Đánh giá chính xác nhân sự được quy hoạch, giới thiệu bầu cử, bổ nhiệm vào các chức danh cấp chiến lược. Kiên quyết không để lọt những người không xứng đáng, những người chạy chức, chạy quyền vào đội ngũ cán bộ cấp chiến lược”(11).

Thứ ba, tăng cường bồi dưỡng cho cán bộ cấp chiến lược thông qua rèn luyện về chính trị, tư tưởng, phẩm chất, đạo đức và năng lực, trí tuệ

Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh, cán bộ mà nhất là cán bộ cao cấp, đều là công bộc của nhân dân, từ nhân dân mà ra, phụng sự nhân dân, phục vụ Tổ quốc, vì thế, phải toàn tâm, toàn ý lo cho dân: “Các đồng chí đều là cán bộ cao cấp, đều giữ những trách nhiệm quan trọng. Công việc thành hay bại là một phần lớn là do nơi tư tưởng đạo đức, thái độ và lề lối làm việc của các đồng chí”(12). Cán bộ cấp chiến lược cần được lựa chọn kỹ càng, chăm lo, rèn luyện bài bản, sàng lọc kỹ càng, quản lý chặt chẽ với chế độ đãi ngộ phù hợp để phát huy năng lực lãnh đạo, sáng tạo và đổi mới. Cán bộ quy hoạch vào các chức danh cấp chiến lược phải được đào tạo toàn diện đảm bảo được các tiêu chuẩn, tiêu chí nghiêm ngặt về phẩm chất chính trị; về đạo đức tác phong; về năng lực trình độ chuyên môn cũng như khả năng lãnh đạo, quản lý. “Phát hiện, lựa chọn từ nguồn quy hoạch những cán bộ tiêu biểu, xuất sắc đã được đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện theo chức danh, nhất là những người đã được thử thách qua thực tiễn, có thành tích nổi trội, có sản phẩm cụ thể, có triển vọng phát triển”(13).

Trong bối cảnh thế giới bước vào kỷ nguyên số hóa, hội nhập quốc tế là xu hướng tất yếu để phát triển thì cán bộ cấp chiến lược phải có phẩm chất, năng lực, trình độ cao, am hiểu sâu sắc những vấn đề của quốc tế và thời đại; thích ứng nhanh nhạy với môi trường quốc tế; có khả năng quy tụ và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị. Do đó, cần đầu tư thỏa đáng cho cán bộ, mà cụ thể như Nghị quyết số 26-NQ/TƯ đã nêu: Bổ sung kiến thức, nâng cao trình độ mọi mặt; bồi dưỡng toàn diện về kỹ năng; định kỳ cập nhật kiến thức mới theo từng nhóm đối tượng; tổ chức các lớp dự nguồn cán bộ cao cấp để chuẩn bị tốt nguồn nhân sự cho các chức danh cấp chiến lược; xây dựng tiêu chuẩn và có kế hoạch, biện pháp đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách đối với Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng theo hướng chỉ lựa chọn cán bộ trẻ, thật sự ưu tú và có cơ cấu hợp lý giữa Trung ương với địa phương, giữa các ngành nghề, lĩnh vực trong hệ thống chính trị.

Thứ tư, cần tiếp tục nghiên cứu, đổi mới công tác bố trí, sử dụng cán bộ cấp chiến lược trên cơ sở thực hiện nghiêm, nhất quán nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ

Xuất phát từ thực tế trong Đảng, có nơi, có lúc còn xảy ra tình trạng buông lỏng lãnh đạo đối với công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ; xem nhẹ nguyên tắc tập trung dân chủ trong quy hoạch, bổ nhiệm, tạo kẽ hở cho chạy chức, chạy quyền, tham nhũng. Cần thiết lập trật tự, kỷ cương trong công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ một cách tổng thể, đồng bộ và liên thông trong toàn hệ thống chính trị.

Đối với bố trí cán bộ chủ chốt, phải đảm bảo có kế hoạch, lộ trình, bước đi cụ thể phù hợp với từng giai đoạn và nhiệm vụ từng thời kỳ cách mạng. “Xây dựng kế hoạch cụ thể để luân chuyển, điều động giữ vị trí cấp trưởng phù hợp với chức danh quy hoạch ở địa bàn khó khăn, lĩnh vực trọng yếu, nơi triển khai mô hình mới để thử thách, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, nhân sinh quan cách mạng, năng lực lãnh đạo toàn diện của cán bộ”(14). Bố trí cán bộ dựa trên năng lực, sở trường cũng như các yếu tố về giới tính, về độ tuổi, dân tộc... Người trẻ có tài được ưu tiên vào vị trí lãnh đạo, kể cả vượt cấp.

Sử dụng cán bộ phải kết hợp sự đánh giá khách quan, công bằng, thực chất để đãi ngộ xứng đáng, thưởng phạt phân minh, tăng tính chịu trách nhiệm. Đánh giá cán bộ cấp chiến lược sẽ gắn với kết quả hoàn thành nhiệm vụ của lĩnh vực, ngành, địa phương và so sánh với các chức danh tương đương; đánh giá để bổ nhiệm và bầu cử phải trực tiếp khảo sát, gặp gỡ, trao đổi đối với các tổ chức, cá nhân có liên quan và tiếp nhận ý kiến phản ánh, đóng góp của cán bộ, đảng viên và nhân dân để nắm rõ cán bộ. Chú trọng chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với xây dựng thể chế, tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, phát huy sáng tạo và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung. Phân công, phân cấp gắn với giao quyền, ràng buộc trách nhiệm, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực và xử lý nghiêm minh sai phạm. Có như vậy mới tạo điều kiện cho cán bộ cấp chiến lược phát huy được vai trò, sứ mệnh đặc biệt quan trọng của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Như vậy, trong công cuộc đổi mới đất nước, đặc biệt là trong Nghị quyết Trung ương 7 Khóa XII (Nghị quyết số 26-NQ/TƯ), Đảng ta đã không ngừng vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ vào xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, đặc biệt là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thận trọng, thường xuyên, có hiệu quả, để qua đó xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ được giao. Triển khai thực hiện thành công Nghị quyết này sẽ đáp ứng được những đòi hỏi về cán bộ và công tác cán bộ trong tình hình mới, góp phần quan trọng để sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

_____________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 8-2018

(1), (2), (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.309, 280, 498.

(4), (5) Sđd, t.6, tr.291, 117.

(6), (7) Sđd, t.15, tr.611, 279.

(8) Sđd, t.11, tr.612.

(9), (10), (11), (13), (14) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2018, tr.54, 72, 71, 70-71, 71.

(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.415.

PGS, TS. Nguyễn Xuân Trung
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
ThS Trần Thị Thanh Giang
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Hưng Yên

Theo Tạp chí Lý luận chính trị
Đức Lâm (st)

Bài viết khác: