Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu tất cả cán bộ, đảng viên phải nêu cao “tính đảng” trong công tác cũng như cuộc sống, đó là phải đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết; làm việc cụ thể, tỉ mỉ, điều tra đến nơi đến chốn; lời nói phải đi đôi với việc làm; cán bộ, đảng viên phải thực sự là tấm gương tốt trong công việc và cuộc sống hàng ngày. Nêu cao “tính đảng” theo tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vững vàng về chính trị, tư tưởng, trong sáng về đạo đức để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, có sức chiến đấu cao.
1. “Tính đảng” trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Tính đảng là vấn đề được V.I.Lênin nêu lên từ rất sớm: “Tính đảng là tư tưởng xã hội chủ nghĩa”1. Kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng của V.I.Lênin, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến công tác bồi dưỡng và phát huy “tính đảng” của đảng viên. Theo Người, Đảng cần phải có những đảng viên kiên trung với lý tưởng, đường lối của Đảng: “Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, cần phải có tính đảng mới làm được việc”, nếu “kém tính đảng, thì việc gì cũng không làm nên”2.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “tính đảng” của cán bộ, đảng viên là sự biểu hiện tập trung nhất lập trường chính trị: “Trong tư tưởng của mình, chỉ có Đảng và lợi ích của Đảng”3, Người đã chỉ rõ nội hàm “tính đảng” của cán bộ, đảng viên gồm: “Một là, phải đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết; Hai là, việc gì cũng phải điều tra rõ ràng, cẩn thận và phải làm đến nơi đến chốn…; Ba là, lý luận và thực hành phải luôn đi đôi với nhau”4. Đây là những phẩm chất cần có của cán bộ, đảng viên. Nội dung “tính đảng” trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện ở một số mặt sau đây:
Một là, phải đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết.
Lợi ích của Đảng, của dân tộc là vấn đề cốt yếu của cách mạng. Các cuộc đấu tranh cách mạng để bảo vệ Tổ quốc cũng là để bảo vệ lợi ích của dân tộc, của Đảng và của nhân dân. Trong đó, lợi ích tối cao là gìn giữ độc lập, tự do của Tổ quốc, mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Bất kỳ bao giờ, bất kỳ việc gì, đều phải tính đến lợi ích chung của Đảng, phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, trước hết, việc của cá nhân và lợi ích của cá nhân phải để lại sau. Đó là nguyên tắc tối cao của Đảng. Mỗi một đảng viên phải ghi chắc điều đó. Chúng ta gọi nó là Đảng tính”5. Mỗi đảng viên phải nhận thức sâu sắc nguyên tắc đó để làm cơ sở cho việc xây dựng ý thức trách nhiệm trong mọi công việc, trên mọi cương vị, chức trách.
Đặt lợi ích của Đảng lên trên hết không có nghĩa phủ nhận, bài trừ lợi ích cá nhân mà vấn đề quan trọng là “phải làm sao cho lợi ích cá nhân hoàn toàn nhất trí với lợi ích của Đảng”6. Bởi vì, lợi ích của Đảng chính là biểu hiện tập trung cao nhất lợi ích “của mọi đảng viên, nó là cái tiêu biểu tập trung lợi ích của toàn giai cấp công nhân và toàn dân tộc và loài người”7. Trên quan điểm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, lợi ích cá nhân và lợi ích của Đảng, của dân tộc luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, thống nhất không tách rời. Trong đó, lợi ích của Đảng luôn bao gồm lợi ích cá nhân, lợi ích mỗi cá nhân là một bộ phận cấu thành lợi ích của Đảng; thành công và thắng lợi của Đảng tức là thành công và thắng lợi của mỗi cán bộ, đảng viên. Cán bộ, đảng viên “không thể phát triển và thành công ngoài Đảng”8. Vì vậy, nguyên tắc “tính đảng” tối cao của cán bộ, đảng viên đó là “phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết”.
Thực tế, không phải lúc nào lợi ích của Đảng cũng trùng với lợi ích cá nhân, thậm chí có khi lợi ích riêng cá nhân mâu thuẫn với lợi ích chung của tập thể, của Đảng. Trong hoàn cảnh đó, đảng viên phải luôn ghi nhớ và quán triệt nguyên tắc: “Nếu gặp khi lợi ích chung của Đảng mâu thuẫn với lợi ích riêng của cá nhân, thì phải kiên quyết hy sinh lợi ích của cá nhân cho lợi ích của Đảng”9. Tính “kiên quyết hy sinh” của cá nhân cần được thực hiện một cách tự giác, không phải tự phát: “Hy sinh lợi ích cá nhân, thậm chí hăng hái vui vẻ hy sinh tính mệnh mình cho Đảng, cho giai cấp, cho dân tộc, cho loài người, đó là nguyên tắc tối cao, đạo đức tối cao của mỗi đảng viên”10. Vì lẽ đó, trong công tác “mỗi một đảng viên, mỗi một bộ phận, mỗi một lời nói, việc làm, tuyệt đối phải nhằm vào lợi ích của toàn cuộc, lợi ích của toàn Đảng”11, đó chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong nhận thức và phương châm hành động của cán bộ, đảng viên.
Hai là, việc gì cũng phải điều tra rõ ràng, cẩn thận và phải làm đến nơi đến chốn.
Cán bộ, đảng viên bất kể ở cương vị nào vào Đảng không phải “để cầu danh, cầu lợi”12, họ đứng vào hàng ngũ của Đảng để trở thành những người chiến sĩ tiên phong của giai cấp, của dân tộc. Đã là đảng viên phải suốt đời vì dân, vì nước mà phấn đấu, làm việc.
Suốt đời tận tụy với công việc, song không phải làm việc một cách tùy tiện, vô nguyên tắc, mà phải hết sức cẩn thận, tỉ mỉ, “nghiên cứu rõ ràng, dựa theo hoàn cảnh thiết thực, có kế hoạch, có từng bước, tỉnh táo, bền bỉ, không chủ quan”13; “Trước khi làm một việc gì phải cẩn thận suy xét xem việc đó thành công thì ảnh hưởng thế nào, thất bại thì ảnh hưởng thế nào”14. Làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải luôn thận trọng đối với công việc được giao đảm nhiệm, phải suy nghĩ một cách toàn diện khi làm bất cứ một công việc gì và phải bao quát, có triển khai công việc phải có kiểm tra, đôn đốc nhắc nhở từng bộ phận thực hiện công việc; cùng với đó là dự tính được những tác động, ảnh hưởng chi phối đến quá trình thực hiện công việc để có biện pháp đúng đắn nhằm hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Đây là một phẩm chất nhất thiết phải có và là một tiêu chí để đánh giá năng lực của cán bộ, đảng viên.
Ba là, lý luận và thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau.
Đảng ta là đội tiên phong, là tổ chức lãnh đạo chính trị của quần chúng. Thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, niềm tin của nhân dân đối với Đảng phụ thuộc một phần lớn vào trí tuệ và năng lực tổ chức thực hiện của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Vì vậy, cán bộ, đảng viên phải có trí tuệ, có nhận thức sâu rộng, có năng lực tư duy khoa học, đồng thời cũng là người có năng lực thực hành giỏi, biết tổ chức và hoạt động thực tiễn có hiệu quả. Những phẩm chất ấy thống nhất với nhau thể hiện vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Do đó, thống nhất giữa lý luận và thực hành, giữa lời nói và việc làm cũng là một trong những nội dung phản ánh phẩm chất đạo đức và uy tín của đảng viên.
Với tư cách là người tiên phong trong công tác, trong cuộc sống hàng ngày đảng viên phải luôn là tấm gương sáng cho quần chúng noi theo. Họ phải luôn là người miệng nói, tay làm, say mê với công việc, gần gũi với quần chúng và đặc biệt phải rất mẫu mực trong lối sống. Những biểu hiện sinh động của sự thống nhất giữa lời nói và việc làm một cách đúng đắn là sợi dây bền chắc, gắn bó giữa đảng viên với quần chúng, giữa Đảng và nhân dân. Đó là hiện thực của uy tín, là cơ sở của niềm tin yêu mà nhân dân dành cho cán bộ, đảng viên.
Thấm nhuần sâu sắc những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã thường xuyên quan tâm công tác xây dựng Đảng, chăm lo việc rèn luyện nâng cao tính đảng cho cán bộ, đảng viên. Trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay, hầu hết đều nêu cao tinh thần phục vụ nhân dân, có ý thức tổ chức kỷ luật, giữ vững đạo đức cách mạng, sinh hoạt giản dị, có tác phong dân chủ, xứng đáng với lòng tin cậy của Đảng và nhân dân. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận cán bộ, đảng viên có những biểu hiện sa sút về tính đảng và đã được Đảng ta thẳng thắn chỉ rõ: “Không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác, né tránh trách nhiệm, thiếu trách nhiệm, trung bình chủ nghĩa, làm việc qua loa, đại khái, kém hiệu quả; không có ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao”15; “cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo vun vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình”16. Những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp, những mối quan hệ đồng chí, đồng đội, mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, giữa đảng viên và quần chúng đang có xu hướng bị biến dạng, làm suy yếu sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng.
Bên cạnh đó, sự tác động tiêu cực của kinh tế thị trường dẫn đến các sai phạm của cán bộ, đảng viên với cách thức làm việc chủ quan, tùy tiện, phô trương, hình thức, thiếu điều tra, nghiên cứu đã gây ra những thiệt hại rất lớn cho Nhà nước và nhân dân. Có một số cán bộ, đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý chỉ lo vun vén lợi ích cá nhân, làm việc tuỳ tiện, vô nguyên tắc; buông lỏng quản lý. Vẫn còn tình trạng tham nhũng, độc đoán, thiếu dân chủ trong chỉ đạo, điều hành, mắc bệnh “thành tích”, háo danh, phô trương, che giấu khuyết điểm, thổi phồng thành tích, đánh bóng “tên tuổi”; lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực, cửa quyền, xa rời quần chúng17. Đảng ta đã chỉ rõ nguyên nhân của những biểu hiện phai nhạt tính đảng đó là do cán bộ, đảng viên thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm… Đây chính là những biểu hiện sự phai nhạt “tính đảng” của cán bộ, đảng viên trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ. Sự phai nhạt đó hết sức nguy hiểm, quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong lập trường chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống “chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”18.
2. Giải pháp nâng cao “tính đảng” cho cán bộ, đảng viên
Để giữ vững “tính đảng” theo tư tưởng Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, thường xuyên tự tu dưỡng, tự rèn luyện, thực hành tự phê bình và phê bình.
Cán bộ, đảng viên cần nêu cao tính tích cực tự tu dưỡng, tự rèn luyện, phấn đấu về mọi mặt. Việc học tập, tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, đảng viên chỉ có kết quả tốt khi chính họ có nhu cầu tu dưỡng, rèn luyện. Nhu cầu đó nảy sinh, phát triển cùng với quá trình tổ chức hoạt động tự giáo dục nhằm hình thành nhân cách theo yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng. Mỗi cán bộ, đảng viên phải xác định rõ động cơ tự học tập, tự rèn luyện là để phục vụ cho công tác cách mạng, biết khắc phục mọi khó khăn để phấn đấu vươn lên. Phát huy tinh thần tự chủ trong mọi hoạt động, phấn đấu vươn lên trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ; tự tu dưỡng, rèn luyện, tự chủ trong tự phê bình và phê bình. Chỉ khi nào cán bộ, đảng viên tự ý thức được trách nhiệm và nghĩa vụ trong công tác, khi đó họ sẽ luôn tiến bộ. Tự tu dưỡng, tự rèn luyện cùng với đó là trong mọi hoạt động không được lơ là, lúc khó khăn, gian khổ thì tích cực rèn luyện đến lúc thành công và quan trọng nhất là tự tu dưỡng, tự rèn luyện phải gắn với chống huênh hoang, kiêu ngạo, quan liêu, hủ hoá, mất hết tư cách cách mạng19.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong tự tu dưỡng, tự rèn luyện quan trọng là “thiết thực phê bình và tự phê bình”20. Chính thái độ của của cán bộ, đảng viên trong tự phê bình và phê bình là tiêu chí đánh giá “người ấy tốt hay là xấu, tiên tiến hoặc là lạc hậu, trung thành với sự nghiệp cách mạng hay là không”21. Mỗi cán bộ, đảng viên vừa nghiêm khắc tự rút kinh nghiệm trong công tác, vừa có thái độ cầu thị, nghiêm túc và khiêm tốn trong việc tiếp thu, sửa chữa theo ý kiến phê bình của đồng chí và quần chúng.
Để thực hiện tự phê bình và phê bình đạt hiệu quả, cán bộ, đảng viên trước hết phải trung thành và thẳng thắn. Bởi vì, “trung thành thẳng thắn là đạo đức cách mạng mà cũng là cái động lực giúp chúng ta công tác có hiệu quả hơn cho Đảng, cho nhân dân”22. Chỉ có trung thành và thẳng thắn, cán bộ, đảng viên trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào “bao giờ cũng đặt lợi ích chung của Đảng của cách mạng của nhân dân lên trên hết, trước hết. Vì Đảng, vì cách mạng, vì dân mà ra sức phấn đấu, dù phải hy sinh cả tính mệnh của mình cũng vui lòng”23. Chỉ có trên cơ sở quán triệt tư tưởng đó, tinh thần tự phê bình và phê bình mới đảm bảo tính khách quan, hiệu quả nhằm chiến thắng chủ nghĩa cá nhân và thông qua đấu tranh chính trị để rèn luyện bản lĩnh, khẳng định “tính đảng”, đấu tranh với những biểu hiện hủ hóa, phản cách mạng.
Thứ hai, ra sức học tập, rèn luyện nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực sáng tạo trong công tác.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu cán bộ, đảng viên dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng phải ra sức học tập, ra sức phấn đấu, ra sức rèn luyện nâng cao trình độ mọi mặt của mình, “… mỗi đảng viên phải học lý luận, phải đem lý luận áp dụng vào công việc thực tế. Phải chữa cái bệnh kém lý luận, khinh lý luận và lý luận suông”24 nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng.
Cán bộ, đảng viên thường xuyên học tập chính là để có đủ năng lực làm chủ, năng lực tổ chức, có tư duy độc lập và sáng tạo, cải tiến phương pháp làm việc, nâng cao chất lượng công tác. Ra sức học tập, rèn luyện nâng cao trình độ phải được coi là một tiêu chuẩn, một giá trị đạo đức của cán bộ, đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, dù với bất cứ lý do gì thì việc xao nhãng nhiệm vụ học tập cũng là một khuyết điểm. Từ đó, Người vạch rõ phương hướng, nhiệm vụ đối với cán bộ, đảng viên là không được xao nhãng việc học tập, phải tu dưỡng không ngừng, đối với cán bộ “chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”25. Người đặt lên hàng đầu “lấy tự học làm cốt”, cán bộ, đảng viên phải biết “tự động học tập”, phải xác định tư tưởng cho đúng. Học tập phải trở thành nhu cầu, thói quen, hành vi hàng ngày của cán bộ, đảng viên. Cán bộ nào lười học, lười suy nghĩ, không thường xuyên tiếp nhận, cập nhật thông tin mới, những hiểu biết mới cũng là một biểu hiện suy thoái về tính đảng, về đạo đức.
Thấm nhuần và vận dụng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạnh mới, Đảng ta luôn đặt ra yêu cầu và tạo điều kiện để đội ngũ cán bộ, đảng viên: “Không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng. Mẫu mực về đạo đức, lối sống. Thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; trung thực, giản dị, thẳng thắn, chân thành”26. Cán bộ, đảng viên phải nêu gương về tinh thần tự học tập, rèn luyện nâng cao trình độ, học tập vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ đối với mọi cán bộ, đảng viên.
Thực tiễn cho thấy, thời gian qua bên cạnh những tấm gương tốt thì vẫn còn không ít cán bộ, đảng viên có tinh thần, thái độ không nghiêm túc trong học tập, rèn luyện… Đây là biểu hiện của sự phai nhạt tính đảng, cần phải phê bình, sửa chữa để mỗi cán bộ, đảng viên thực sự là tấm gương về học tập cho quần chúng noi theo, góp phần đưa cả nước trở thành một “xã hội học tập”, phấn đấu vì Việt Nam giàu đẹp, văn minh, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Thứ ba, phát huy vai trò gương mẫu trong mọi hoạt động.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới cuộc sống mới”27. Như vậy, sự lành mạnh của đời sống đạo đức xã hội phụ thuộc một phần rất quan trọng vào sự nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là những người đứng đầu các ngành, các địa phương, các đơn vị. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhắc nhở: muốn thực sự làm người lãnh đạo, người chỉ huy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải hết sức giữ gìn và nêu gương về mặt đạo đức, nếu không thì rồi sẽ hỏng cả. Nêu gương, có nghĩa là bản thân cán bộ, đảng viên phải là người tiên phong làm trước, làm gương, không những hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao, mà còn là những mẫu mực trong cuộc sống hàng ngày. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giữ vững “tính đảng” của cán bộ, đảng viên có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc trong suốt quá trình xây dựng và phát triển của Đảng ta. Trong giai đoạn hiện nay, những tư tưởng của Người càng khẳng định giá trị to lớn, đặc biệt là khi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang tiến hành đại hội đảng bộ các cấp hướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Nêu cao “tính đảng” theo tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vững vàng về chính trị, tư tưởng, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, có sức chiến đấu cao./.
ThS. Bùi Xuân Chung - Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
ThS. Điền Văn Dần - Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
Theo Tạp chí điện tử Tổ chức nhà nước
Tâm Trang (st)
---------------------------------------
Ghi chú:
1. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 12, Nxb CTQG- ST, H.2005, tr.165.
2, 4, 9, 11, 20, 24, 25. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.307, tr.291, tr.276, tr.302, tr.275, tr.292.
3, 5, 6, 7, 8, 12, 19, 10. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.290, tr.290, tr.290, tr.291, tr.291, tr.291, tr.296.
13. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb CTQG- ST, H.2011, tr.342.(14) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG- ST, H.2011, tr.122
15, 16, 17, 18, 26. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016, tr.29, tr.30, tr.31, tr.23, tr.122.
21, 22, 23. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.210, 209. tr.209.
27. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, Nxb CTQG- ST, H.2011, tr.551.