“Dĩ bất biến, ứng vạn biến” là một trong những tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trở thành phương châm chỉ đạo của Đảng trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Hiện nay, trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến nhanh, phức tạp, khó dự báo, “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” càng có ý nghĩa quan trọng, cần được quán triệt, vận dụng hiệu quả trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, đất nước ta gặp muôn vàn khó khăn, thử thách trước nạn “giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm”, cùng sự chống phá quyết liệt của lực lượng phản động bên trong. Trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, để giải quyết những khó khăn, thử thách đó, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra nhiều chiến lược, sách lược linh hoạt, mềm dẻo, theo tư tưởng “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, nên từng bước phân hóa, gạt bỏ từng kẻ thù, tạo sự ủng hộ rộng rãi trong và ngoài nước, giữ vững thành quả Cách mạng tháng Tám năm 1945. Tư tưởng “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” đã trở thành phương châm chỉ đạo của Đảng để lãnh đạo toàn dân, toàn quân trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước trước đây, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hiện nay, trong bối cảnh thế giới, khu vực có nhiều biến động, phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” tiếp tục được Đảng ta kế thừa, phát triển trong lãnh đạo sự nghiệp quốc phòng, an ninh, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới. Điều đó đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên cần quán triệt và vận dụng linh hoạt vào thực tiễn công tác trên một số nội dung chủ yếu sau:
Đại diện Liên hợp quốc trao Huy chương Vì sự nghiệp Gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc cho các thành viên Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 3, tháng 3/2022. Ảnh: qdnd.vn
Thứ nhất, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Đây là quan điểm của Đảng, là sự lựa chọn duy nhất đúng, đáp ứng đòi hỏi và nguyện vọng của dân tộc, nhân dân Việt Nam, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Đảng ta xác định, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội luôn có mối quan hệ biện chứng và tác động qua lại lẫn nhau; độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc trường tồn, phát triển. Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, Đảng ta luôn khẳng định: “Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” là quan điểm nhất quán, là mục tiêu “bất biến”, làm cơ sở “gốc” cho những sách lược đối nội, đối ngoại linh hoạt, sáng tạo, mềm dẻo - “ứng vạn biến”, nhằm tăng cường quốc phòng, an ninh, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới.
Thứ hai, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước, phát huy vai trò to lớn của Nhân dân đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Đây là quan điểm cơ bản, nhất quán, với nội hàm là sự kết hợp, hòa quện giữa ba nhân tố: Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Theo đó, mỗi nhân tố có vai trò, chức năng riêng, song có mối quan hệ chặt chẽ, không tách rời nhau và đều rất quan trọng đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định bản chất cách mạng, tính toàn dân, toàn diện, sức mạnh quốc phòng Việt Nam; quyết định thắng lợi sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong văn kiện, nghị quyết các kỳ đại hội, nhất là Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Đảng ta luôn khẳng định giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước, phát huy vai trò to lớn của Nhân dân đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước phải toàn diện, tập trung vào thực hiện có hiệu quả xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân vững mạnh, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Phát huy vai trò to lớn của Nhân dân, với phương châm dựa vào dân, “dân là gốc”, xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện “ý Đảng - lòng Dân” tạo thành trì vững chắc, bất cứ thế lực thù địch, phản động nào cũng không thể phá nổi; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp để giữ vững “trong ấm, ngoài êm”, đạt mục tiêu xây dựng nước Việt Nam hùng cường “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là cơ sở vững chắc trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ ba, xác định rõ mục tiêu bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định mục tiêu bảo vệ Tổ quốc là “... bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia,... để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Quán triệt tinh thần đó, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) tiếp tục bổ sung, phát triển mục tiêu một cách đầy đủ hơn, đó là “... bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa...”1. Trên cơ sở mục tiêu bảo vệ Tổ quốc, xác định rõ nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân; trong đó, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt trong tăng cường quốc phòng, an ninh, “chủ động phòng ngừa” là chính; ứng phó kịp thời, hiệu quả với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống; có kế sách “ứng vạn biến” ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.
Thứ tư, thực hiện nhất quán chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ”. Đây cũng là một vấn đề “bất biến” thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng về thực hiện chính sách quốc phòng “bốn không” của Việt Nam. Đó là: “Không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”2. Đồng thời, kiên định về nguyên tắc, mục tiêu bảo vệ Tổ quốc - “bất biến”, linh hoạt về sách lược - “ứng vạn biến”; giữ “trong ấm, ngoài êm”; “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”3; cân bằng hài hòa lợi ích trong quan hệ với các nước, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, không để bị động, cô lập, lệ thuộc hoặc đối đầu, xung đột lợi ích chiến lược với các nước. Tích cực, chủ động ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ xung đột vũ trang và chiến tranh xâm lược; thực hiện phương châm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược của kẻ thù trong mọi tình huống. Trong bối cảnh tình hình thế giới phức tạp hiện nay, Việt Nam tăng cường tiềm lực quốc phòng, chủ trương xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh” tiến lên hiện đại là nhằm nâng cao khả năng “tự vệ”, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, chứ không phải là chạy đua vũ trang và càng không hề có ý định đe dọa vũ lực hay sử dụng vũ lực đối với các quốc gia khác trong quan hệ quốc tế; đồng thời, hướng đến mục tiêu hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế, góp phần bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”.
Thứ năm, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, xứng đáng là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Lực lượng vũ trang nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện; là lực lượng nòng cốt của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Sự lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân là nguyên tắc “bất biến”, nhất quán, xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, nhân tố quyết định mọi thắng lợi, bảo đảm cho lực lượng vũ trang ngày càng trưởng thành, lớn mạnh, hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử của mình trước dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Phải xây dựng và lãnh đạo vững chắc lực lượng vũ trang cách mạng của nhân dân, bảo đảm đánh thắng bất cứ kẻ thù nào, bất cứ trong hoàn cảnh nào”4. Ở đâu có tổ chức và hoạt động của lực lượng vũ trang nhân dân thì ở đó phải có sự lãnh đạo của Đảng. Đây là sự tổng kết thực tiễn và là khái quát, phát triển tư duy lý luận của Đảng về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân; chỉ rõ quy luật xây dựng, phát triển của lực lượng vũ trang nhân dân, trực tiếp là Quân đội nhân dân, Dân quân tự vệ và Công an nhân dân trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong từng nhiệm vụ, giai đoạn cách mạng và căn cứ điều kiện của đất nước, xu thế thời đại để xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đại hội XII của Đảng xác định: “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng...”5. Trước tình hình, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới, tại Đại hội XIII, Đảng ta đã bổ sung, phát triển, xác định cụ thể hơn mục tiêu, lộ trình xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân: “... Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”6. Đồng thời, bổ sung và phát triển mới về: “Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu và dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các vùng, miền, trên biển”7. Tích cực, chủ động làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình”, âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội và Công an; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ của các thế lực thù địch. Giữ vững nguyên tắc lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới.
Thứ sáu, vận dụng đúng đắn quan điểm về đối tác, đối tượng trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước đây, trong từng giai đoạn của cách mạng giải phóng dân tộc, việc xác định đối tác, đối tượng (bạn - thù) cơ bản dựa trên nền tảng ý thức hệ, nên có phần cứng nhắc, xem mọi mối quan hệ đều theo khuôn khổ “địch - ta”. Ngày nay, trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, quan hệ quốc tế có những phát triển mới, quan hệ đối tác, đối tượng đan xen, phải thường xuyên nắm chắc tình hình, đánh giá, dự báo sát, đúng, nắm vững quan điểm của Đảng về đối tác, đối tượng; vận dụng phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” thực hiện đúng đắn, linh hoạt quan điểm của Đảng về đối tác, đối tượng; kiên định tính “bất biến” của mục tiêu bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, thấy rõ tính biện chứng, xác định và giải quyết linh hoạt, mềm dẻo “ứng vạn biến” giữa đối tác và đối tượng. Đặc biệt, cần xác định trong mỗi đối tác có thể có mặt chưa đồng thuận, khác biệt, có mặt mâu thuẫn với lợi ích quốc gia - dân tộc phải đấu tranh để thu hẹp bất đồng, triệt tiêu mâu thuẫn, không bỏ lỡ cơ hội đưa quan hệ hợp tác phát triển, nhưng cũng không được chủ quan, lơ là, mất cảnh giác. Trong mỗi đối tượng có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; linh hoạt, mềm dẻo “ứng vạn biến” và nỗ lực thúc đẩy “chuyển hóa mềm” giảm bất đồng, mâu thuẫn, tính chất đối tượng; tận dụng mặt thuận lợi, đối tác của đối tượng để hợp tác cùng có lợi, nâng cao hiệu quả của quan hệ đối tác; tăng cường nội lực, bản lĩnh, độc lập, tự chủ; kiên quyết không để rơi vào thế bị động, bất ngờ hoặc đối đầu, cô lập. Vận dụng tốt phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, tận dụng cơ hội để hợp tác, giảm mẫu thuẫn để chuyển hóa từ đối tượng sang đối tác. Cùng với đó, phải thấy rõ sự khác biệt về lợi ích để có sách lược, giải pháp đấu tranh, thu hẹp bất đồng, triệt tiêu mâu thuẫn, đưa quan hệ phát triển, thực hiện: Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Tư tưởng “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành phương châm chỉ đạo của Đảng, có vai trò rất quan trọng trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành thắng lợi. Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực và trong nước có cả những thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta cần quán triệt sâu sắc và vận dụng linh hoạt, sáng tạo phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp quốc phòng, an ninh, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
Trung tướng, TS. ĐÀO TUẤN ANH
Phó Giám đốc Học viện Quốc phòng
Theo Tạp chí Quốc phòng toàn dân
Thanh Huyền (st)
___________________
* - Bài viết là sản phẩm nghiên cứu của Đề tài KX.04.29/21-25.
1 - Ban Chấp hành Trung ương – Nghị quyết số 44-NQ/TW, ngày 24/11/2023, Hội nghị Trung ương 8 (khóa XIII) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”.
2 - Bộ Quốc phòng – Quốc phòng Việt Nam, Nxb CTQGST, H. 2019, tr. 25.
3 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQGST, H. 2021, tr. 162.
4 - Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 14, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 608.
5 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 149.
6 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQGST, H. 2021, tr. 157 – 158.
7 - Sđd, tr. 158.