Hệ thống Trợ năng

Thứ năm, 13/02/2025

Theo Tạp chí Trí thức và Phát triển - Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Hà Nội,  Bộ Sách điện tử Huyền thoại Đường 9 - Khe Sanh Anh hùng – Trang http://uongnuocnhonguon.vn).

2. Huyền thoại Đường 9 - Khe Sanh Anh hùng (Tiếp theo)

Chiến dịch Đường 9 – Nam Lào

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trên mỗi chặng đường chiến đấu và chiến thắng, quân và dân ta đã tổ chức những trận đánh với quy mô thcíh hợp, nhằm tạo bước ngoặt, tăng thế và lực cho ta, đồng thời đẩy địch vào thế bị động đối phó, từng bước đi đến thất bại hoàn toàn. Trận chiến Đường 9 - Khe Sanh (1968) và Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào (1971) là những trận đánh như vậy; là những bản hùng ca thấm đẫm lòng yêu nước và ý chí “Không có gì quý hơn độc lập tự do” của quân và dân ta; mãi mãi để lại trong lịch sử kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc dấu son chói lọi...

Bối cảnh chung: Đầu năm 1971, Mỹ đã tiến hành biện pháp chiến lược” chiến tranh bóp nghẹt” bằng cách đánh ra vòng ngoài với các cuộc tiến công trên chiến trường Lào - Campuchia nhằm triệt phá hành lang vận chuyển và hậu phương chiến lược trực tiếp của ta. Quảng Trị trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước có vị trí chiến lược hết sức quan trọng bởi đây là nơi đầu cầu giới tuyến, có Đường 9 đi sang nước bạn Lào, có tuyến vận tải chiến lược Hồ Chí Minh đi qua. Nhằm đánh phá, cắt đứt tuyến vận tải chiến lược, hủy diệt cơ sở hậu cần, làm cho lực  lượng vũ trang của ta bị tiêu hao và suy yếu, một kế hoạch tiến công mang mật danh “Hành quân Lam Sơn 719” (năm 1971) được Mỹ và chính quyền Sài Gòn chuẩn bị kỹ càng, đặt nhiều tham vọng, nhằm nhiều mục tiêu.

Về mặt quân sự, Mỹ và chính quyền Sài Gòn muốn thể nghiệm công thức chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”: Bộ binh Sài Gòn + hỏa lực + hậu cần Mỹ,  hằm thông qua một cuộc hành quân quy mô lớn để thử thách, và nếu thành công, sẽ chứng tỏ quân đội Sài Gòn đủ khả năng thay thế vai trò của quân chiến đấu Mỹ trên chiến trường. Thủ đoạn của chúng trong “Lam Sơn 719” là tiến nhanh, đánh nhanh, đánh chính diện và phối hợp nhiều cánh quân từ hướng Đông theo trục đường 9 là chủ yếu; mặt khác sẽ phối hợp với quân ngụy Lào tiến công từ phía sau theo hướng Tây vào các mục tiêu của ta. Chúng huy động máy bay trực thăng chở quân kết hợp với hành quân bộ. Trước khi hành quân, chúng còn tung tin nghi binh chuẩn bị vượt sông Bến Hải để đổ bộ tấn công miền Bắc (Quân khu 4) hòng đánh lừa ta. Để đạt được mục đích và tham vọng trên, Mỹ - Ngụy đã huy động một lực lượng rất lớn với sự yểm trợ của không quân, hải quân, pháo binh… của Mỹ. Chúng dự định tiến hành chiến dịch trong khoảng 3 tháng, với 4 giai đoạn và kết thúc trước mùa mưa năm 1971.

Để thực hiện cuộc hành quân quy mô lớn này, Mỹ - ngụy đã tập trung một lực lượng lớn gồm nhiều đơn vị cơ động, chiến lược tinh nhuệ nhất của quân ngụy, có sự chi viện rất mạnh của không quân Mỹ, cụ thể bao gồm: 3 Sư đoàn (Sư đoàn Dù, Sư đoàn Thủy quân lục chiến, Sư đoàn Bộ binh 1) Liên đoàn 1 biệt động quân, Trung đoàn 4, 5 thuộc Sư đoàn Bộ binh 2, 4 thiết đoàn thiết giáp (4, 7, 11, 17). Quân Mỹ hậu thuẫn phía sau và tham chiến cùng quân ngụy với 12 tiểu đoàn bộ binh và bộ binh cơ giới bao gồm: 5 tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 101 dù; 4 tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 1; Sư đoàn 5 bộ binh cơ giới và 3 tiểu đoàn thuộc Sư đoàn A-mê-ricơn, 8 tiểu đoàn pháo binh (155 đến 175mm). 1200 máy bay các loại, trong đó có 800 máy bay lên thẳng và lên thẳng vũ trang, đây là số lượng máy bay lên thẳng tham gia chiến đấu lớn nhất và duy nhất trong một chiến dịch kéo dài 3 tháng của cuộc chiến tranh ở Việt Nam; 300 máy bay phản lực hầu hết là tiêm kích bom, 50 máy bay vận tải cỡ lớn (C130, C123) và 50 máy bay chiến lược B52.

Với một lực lượng mạnh có sự yểm trợ tối đa của hỏa lực Mỹ, ngụy quyền Sài Gòn và quan thầy Mỹ đều hy vọng sẽ giành chiến thắng trong Chiến dịch lớn này... Tối 7-2, Tổng thống Mỹ Richard Nixon nhận được bản báo cáo đầu tiên: Cuộc tiến quân vượt biên giới Việt – Lào đã tiến hành “theo đúng kế hoạch”, mà không gặp bất kỳ sự cản trở nào. 8 giờ ngày 8 tháng 2 năm 1971, Tống thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố mở cuộc tiến công nhằm cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh. Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa tuyên bố: “Sẽ đón các nhà báo quốc tế tại Xê-pôn”.

Về phía ta, ngay từ mùa Hè 1970, Bộ Chính trị đã nhận định về khả năng địch có thể tiến công tuyến hành lang vận chuyển chiến lược của ta ở Trung - Hạ - Nam Lào, Đông Bắc Cam pu chia. Theo Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên – Nguyên Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn (Đoàn 559): “Sau khi Mỹ có chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, trong một tài liệu mật của họ mà tình báo chiến lược ta nắm được, có đề ra việc cắt đứt vĩnh viễn sự chi viện từ miền Bắc vào miền Nam. Chúng ta đã dự đoán muốn thực hiện kế hoạch đó, Mỹ -Thiệu phải mở một chiến dịch binh chủng hợp thành quy mô lớn tiến công vào Đường 9”. Và, thực tế đúng như vậy.

khe sanh  anh 12
Đại tướng Võ Nguyên Giáp nghe Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên Tư lệnh
Bộ đội Trường Sơn và các đồng chí Chỉ huy ở mặt trận báo cáo phương án chuẩn 
 bị cho Chiến dịch đường 9 - Nam Lào (1971.) Ảnh tư liệu

Cũng theo Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên: “Chính vì nắm rất chắc địch, cộng với sự cảm nhận thiên tài về quân sự mà trước khi xảy ra chiến dịch, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh QĐND Việt Nam đã hai lần vào làm việc với Bộ Tư lệnh Trường Sơn chuẩn bị cho chiến dịch quan trọng này. Lần thứ nhất  là đầu tháng 12-1970, có anh Văn Tiến Dũng, lúc đó là Tổng Tham mưu trưởng, đi cùng. Sau khi nghe Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn báo cáo về tình hình khu vực Đường 9, sự chuẩn bị của Bộ đội Trường Sơn về đường sá, thông tin, lực lượng phòng không…, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói dự kiến cuộc hành quân của Mỹ-ngụy và ý định Bộ sẽ đưa tiếp 2 sư đoàn cơ động vào chiến trường này.

Cuối tháng 12-1970, Đại tướng vào lần thứ hai. Lần này anh giao nhiệm vụ cụ thể cho Bộ đội Trường Sơn. Sau đó, Đại tướng nói với mọi người rằng: Chiến dịch này là cơ hội cho ta diệt địch, cho nên các lực lượng ở Đường 9 không được bộc lộ. Cần phải làm cho địch nhầm tưởng lực lượng của ta ở đây yếu để chúng đưa quân lên càng nhiều càng tốt. Các lực lượng phòng không ở Đường 9 rất mạnh, nhưng chỉ được sử dụng khi trực thăng địch bay từ 50 chiếc trở lên. Cần phải làm cho chúng lên nhiều nhưng không về được. Sau này tình hình chiến sự xảy ra đúng như vậy”.

Bộ Tổng Tham mưu đã vạch kế hoạch tác chiến, điều động lực lượng chủ động chuẩn bị cho chiến trường ở khu vực Đường 9 - Nam Lào. Bám sát diễn biến chiến trường, nắm chắc âm mưu của địch, Bộ Tổng tham mưu đã sớm nhận định tình hình chung và tình hình của địch, phán đoán đúng ý đồ hành động của chúng, kịp thời xác định biện pháp đối phó. Cuối tháng 1-1971, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đồng ý với nhận định của Bộ Tổng Tham mưu: Cuộc hành quân ra Đường 9 – Nam Lào của địch, với lực lượng và phương tiện chiến tranh hiện đại, nhằm cắt đứt tuyến vận tải chiến lược Bắc - Nam của ta là một bước phiêu lưu quân sự cực kỳ nghiêm trọng của đế quốc Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn. Hành động trên của địch sẽ gây cho ta nhiều khó khăn nếu không đối phó một cách có hiệu quả, nhưng lại tạo cho ta cơ hội và thời cơ thuận lợi để ta tranh thủ tiêu diệt địch. Từ đó, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương nhấn mạnh: Trong bất cứ tình huống nào cũng phải đánh bại cuộc hành quân của địch, tiêu diệt cho được một bộ phận quan trọng lực lượng cơ động chiến lược của chúng, bảo vệ cho kỳ được kho tàng và bảo đảm công tác vận tải chi viện cho các chiến trường.

Nhằm thực hiện quyết tâm đã xác định, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở chiến dịch phản công tiêu diệt lớn quân địch. Bộ Quốc phòng chỉ đạo các cơ quan triển khai xây dựng kế hoạch tác chiến, tổ chức lực lượng, chuẩn bị chiến trường chu đáo, chính xác, tạo thế trận phản công địch. Đặc biệt, về mặt lực lượng, chúng ta hình thành B70, tiếp đó là B702 - Mặt trận Đường 9 - Nam Lào (tương đương quân khu), bao gồm: 5 Sư đoàn bộ binh (308, 304, 320, 324, 2); 8 Trung đoàn pháo binh; 6 Trung đoàn pháo cao xạ; 3 Trung đoàn công binh; 3 Tiểu đoàn xe tăng, thiết giáp, 8 Tiểu đoàn đặc công cùng với lực lượng tại chỗ của các mặt trận: B5 (Đường 9 - Bắc Quảng Trị), B4 (Quân khu Trị - Thiên), Đoàn 559; Chỉ huy chiến dịch là những cán bộ dày dạn kinh nghiệm(5). N gày 31-1-1971, Trung ương Đảng ra lời kêu gọi toàn thể cán bộ, chiến sĩ Mặt trận đường 9 Nam Lào: “Trận này là một trận có ý nghĩa quyết định về chiến lược không những để giữ vững tuyến vận chuyển chiến lược mà còn nhằm tiêu diệt nhiều đơn vị dự bị chiến lược của địch, tạo điều kiện đánh bại một bước quan trọng âm mưu “Việt Nam hóa chiến tranh”. Quân đội ta nhất định phải đánh thắng trận này”. Diễn biến chiến dịch: Ngày 30-1-1971, Mỹ - Ngụy mở cuộc hành quân “Lam Sơn 719” tấn công lớn ra đường số 9 và Nam Lào. Lực lượng địch lúc đầu có 15 Trung đoàn, Lữ đoàn bộ binh, dù, Thủy quân lục chiến, 2 Lữ đoàn thiết giáp (578 xe tăng, xe bọc thép), 21 Tiểu đoàn pháo binh, 1000 máy bay các loại với tổng quân số 55.000 (15.000 quân Mỹ trợ chiến); ngoài ra có hai binh đoàn (GM30, GM33) quân phái hữu Lào phối hợp tác chiến. Chúng tin là sẽ giành thắng lợi để chứng minh cho sự thành công của học thuyết Ních-xơn và chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ. Đầu tháng 2 năm 1971, 17.000 (sau tăng lên 21.000) quân VNCH vượt biên giới với Lào đi theo đường 9 và hướng về trung tâm hậu cần của QĐNDVN tại Xê-pôn.

Chiến dịch Lam Sơn 719, cuộc tấn công vào hệ thống đường mòn Hồ Chí Minh và cuộc thử nghiệm lớn chính sách Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ, đã bắt đầu. Theo luật, quân đội Mỹ (ngoại trừ các đơn vị không quân, pháo binh, và trực thăng) không được phép tham gia cuộc xâm lấn. QLVNCH đã tấn công, tiến đến các vị trí đã định trong kế hoạch. Nhưng không chốt giữ được lâu để thực hiện mục đích ngăn cản sự tiếp tế. QĐNDVN đã dự đoán trước được hướng tiến công nên đã chủ động thực hiện phòng ngự - phản công, gây thiệt hại lớn và ngăn chặn được ý đồ chia cắt của QLVNCH.

khe sanh  anh 13
Đánh địch trên một ngọn đồi không tên trong
Chiến dịch Đường 9 Nam Lào 1971 (Ảnh: Đoàn Công Tính)

Để đối phó với địch, quyết tâm của ta là bằng mọi giá phải bảo vệ bằng  được Đường mòn Hồ Chí Minh; bất luận hoàn cảnh nào cũng phải sẵn sàng để đánh địch trên các hướng, nếu địch đánh ra Đường 9 thì đó là cơ hội cho ta tiêu diệt chúng. Ở khu vực này địch và ta đều có thể tác chiến lớn hiệp đồng binh chủng. Tuy nhiên, địch ít có thuận lợi hơn ta vì tác chiến xa căn cứ hậu phương chiến lược. Với ta, đây là chiến trường nối liền với hậu phương, ta có nhiều điều kiện phát huy sức mạnh của hậu phương lớn chi viện cho tiền tuyến, thuận lợi cho tập trung nhiều lực lượng, nhiều binh chủng đánh những trận hiệp đồng tiêu diệt lớn, hơn nữa lại là chiến trường hoạt động quen thuộc của nhiều sư đoàn chủ lực của ta, đặc biệt là Sư đoàn 304 suốt từ năm 1968 đến 1971 liên tục hoạt động ở địa bàn Đường 9 - Nam Lào cùng với các đơn vị tại chỗ thuộc Đoàn 559. Các đơn vị tham gia chiến dịch như: Sư đoàn 304, Sư đoàn 308, Sư đoàn 320, Sư đoàn 324, Sư đoàn 2… tổ chức các đoàn cán bộ đi chuẩn bị chiến trường.

Để thực hiện tư tưởng chỉ đạo tác chiến của Bộ Chính trị, ngày 6 tháng 2 năm 1971, Bộ quyết định thành lập Bộ Tư lệnh mặt trận Đường 9 - Nam Lào (Bí danh Bộ tư lệnh 702). Thiếu tướng Lê Trọng Tấn, Phó Tổng Tham mưu trưởng và Thiếu tướng Lê Quang Đạo, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị được cử làm Tư lệnh và Chính ủy chiến dịch. Đại tá Cao Văn Khánh làm Phó Tư lệnh, Đại tá Hoàng Phương làm Phó Chính ủy. Đây là Bộ Tư lệnh có đủ quyền hạn và khả năng chỉ huy, tất cả các lực lượng tham gia chiến dịch và tổ chức hiệp đồng với các chiến trường có liên quan như: Bộ Tư lệnh B70, Đoàn 559, Bộ Tư lệnh Đường 9 Bắc Quảng Trị, B4, Quân khu 4, lực lượng vũ trang của bạn ở Nam Lào. Đồng thời, Quân ủy Trung ương giao cho Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch nhiệm vụ cụ thể là:

Tiêu diệt lớn và làm tan rã thật nhiều quân ngụy, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của chúng. Tiêu diệt và tiêu hao một bộ phận quân Mỹ, đánh cho địch một đòn chí mạng.

Giữ vững tuyến vận chuyển chiến lược, bảo vệ tốt kho tàng của ta. Đây là một nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược, một điểm đặc biệt của chiến dịch cần hết sức coi trọng và quán triệt đầy đủ trong thực hành.

Phối hợp với các chiến trường, tạo điều kiện cho các chiến trường khác đẩy mạnh tiến công địch toàn diện, nhất là đánh phá “bình định” của địch.

Bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, bảo đảm hậu phương lớn luôn vững vàng trong mọi tình huống.

Trận này nhất định phải đánh thắng vì là một trong những trận có ý nghĩa quyết định về chiến lược; phải nhân cơ hội này mà rèn luyện bộ đội chủ lực trưởng thành lên một bước mới trong tác chiến tập trung lớn có nhiều binh chủng hiệp đồng chiến đấu.

khe sanh  anh 14
Lực lượng kỹ thuật và bộ đội Trung đoàn pháo binh 368 sửa chữa
 pháo tại Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào năm 1971. Ảnh tư liệu

Thượng tướng Nguyễn Chơn - Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng khóa VI, VII, nguyên Đại biểu Quốc hội khóa VIII , IX, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn 2 Quân khu 5 thời gian diễn ra chiến dịch, trong bài viết của mình, có kể lại:

“Cho đến trước ngày địch mở cuộc hành quân lớn, mọi công tác chuẩn bị của ta từ cấp chiến lược đến các đơn vị đã cơ bản hoàn thành. Trên địa bàn Bắc-Nam Đường 9, Bộ đội 559 đã tổ chức 7 khu vực tác chiến tại chỗ; huy động tham gia chiến dịch 1 Sư đoàn và 5 Trung đoàn phòng không (có 1 Trung đoàn tên lửa của Bộ), 10 Tiểu đoàn pháo cao xạ, 25 Đại đội và 33 Trung đội súng máy cao xạ bố trí thành 8 cụm trên tâm điểm là tam giác Bản Đông - Tha Mé - La Hạp, hình thành lưới lửa phòng không nhiều tầng, nhiều vòng đợi chờ địch. Các mạng đường chiến dịch đã được hoàn chỉnh thêm. Các kho vật chất ở khu vực Đường 9 có hơn 3.000 tấn. Hàng dự trữ chiến lược trên tuyến có hơn 3.000 tấn.

Trước giờ nổ súng chiến dịch, tôi nhận được điện trực tiếp của đồng chí Đồng Sĩ Nguyên, Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn hỏi về tình hình đạn dược, lương thực, thông tin... Tôi vui mừng báo cáo: Bộ đội Trường Sơn đã bảo đảm cho Sư đoàn đầy đủ. Nhất định chúng tôi sẽ đánh thắng! Bên kia đầu dây, giọng đồng chí Tư lệnh trầm ấm động viên: Chúc Sư đoàn 2 giành thắng lợi.

Phải kiên quyết chặn đứng, bao vây, tiêu diệt không cho địch có đường về!”. Qua đó cho thấy phần nào sự chuẩn bị tích cực, chu đáo và tư duy chiến lược, chiến thuật của Quân đội ta trong cuộc chiến chống lại kẻ địch có ưu thế vượt trội về hỏa lực, về phương tiện chiến tranh.

Chiến dịch gồm 3 đợt:

Đợt 1 (từ ngày 31-1 đến ngày 7-2-1971): Địch điều động lực lượng chuẩn bị tiến công. Ta triển khai thế trận chiến dịch, đánh nhỏ để tiêu hao, làm chậm bước tiến của địch. Ngày 30-1 đến ngày 6-2-1971, quân địch bằng đường không và đường bộ đã đưa 22 tiểu đoàn lính dù, lính thủy đánh bộ và 7 tiểu đoàn pháo từ Sài Gòn qua Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Thừa Thiên và ra Đông Hà, Ái Tử, Khe Sanh. Trong đợt này vừa hành quân thần tốc, địch vừa kết hợp nghi binh hòng đánh lừa ta. Trong lúc công tác chuẩn bị chiến trường của ta đang diễn ra khẩn trương thì ngày 27-1-1971 địch tập trung các hoạt động nghi binh vào khu vực nam Quân khu 4. Trên hướng mặt trận Đường 9 Bắc Quảng Trị, địch tung nhiều toán biệt kích, thám báo ra khu vực ven Đường 9 thăm dò lực lượng ta, đồng thời cho quân xông ra 4 xã bờ nam sông Bến Hải dọc theo khu phi quân sự.

khe sanh  anh 15
Bộ đội ta tiến công trên mặt trận đường 9 Nam Lào

Sau khi địch đánh phá ác liệt vào các mục tiêu ven Đường 9 và sâu vào các tuyến vận tải của ta ở phía tây bắc Đường 9 lên giáp biên giới Việt - Lào, ngày 30-1 một trung đoàn hỗn hợp của Sư đoàn Bộ binh số 9 Mỹ mở trận càn “Đi-nê-cu-ni-on” dọc Đường 9 phía Nam khu phi quân sự, chiếm lại khu vực Khe Sanh để làm bàn đạp cho cuộc tiến công sang Nam Lào và nghi binh cho quân ngụy Sài Gòn mở cuộc hành quân “Lam Sơn 719” đánh sang khu vực Đường 9 - Nam Lào. Ngày 2-2, chúng cho một lữ đoàn lính thủy đánh bộ đánh nghi binh ở phía Đông Đông Hà và phía Bắc Cửa Tùng...

Ngay sau khi địch triển khai lực lượng, theo chỉ thị của Bộ, Bộ Tư lệnh mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị do đồng chí Nguyễn Anh Đệ làm Tư lệnh đã khẩn trương cơ động lực lượng đánh địch nhằm tiêu hao một phần sinh lực, phương tiện, làm chậm bước tiến của địch tạo điều kiện cho các đơn vị chủ lực bộ triển khai lực lượng đánh địch trên các hướng.

Do chuẩn bị cả 2 tình huống đối phó, nên đến ngày 7-2-1971, khi địch triển khai xong toàn bộ lực lượng trên các khu vực bàn đạp thì cũng là lúc các sư đoàn chủ lực thuộc Binh đoàn 70 và lực lượng vũ trang Mặt trận đường 9 - Bắc Quảng Trị của ta đã hoàn tất mọi mặt chuẩn bị cho chiến dịch và sẵn sàng chiến đấu.

Đợt 2 (từ ngày 8-2 đến ngày 11-2- 1971): Chủ yếu là hành quân, tập kết lực lượng đến các vị trí mục tiêu. Địch tiến quân bằng ba cánh, kết hợp với đổ bộ đường không đánh chiếm Bản Đông và một số điểm cao ở nam, bắc Đường 9.  Hàng chục trận địa pháo với hàng trăm khẩu pháo từ 105mm đến 175mm bố trí dọc biên giới Việt - Lào (dài 30km); hàng chục tốp máy bay phản lực các loại đồng loạt đánh phá dữ dội các mục tiêu dọc hai bên Đường 9 Nam Lào, mở màn cho cuộc tấn công quy mô Lam Sơn 719. Với sự chi viện tối đa về hỏa lực và sự yểm trợ của 1 Lữ đoàn bộ binh, 7 Trung đoàn bộ binh, lính dù và thiết giáp quân ngụy Sài  Gòn chia thành 3 cánh vượt biên giới.

khe sanh  anh 16
Bắt sống xe bọc thép và máy bay trực thăng địch tại cửa ngõ Bản Đông Ảnh tư liệu

khe sanh  anh 17
Các chiến sĩ Quân giải phóng trong trận tiêu diệt Tiểu đoàn 2, Lữ đoàn dù 3 - ngụy quân tại chân cao điểm 402 và Đồi Không tên.
Ảnh tư liệu

Việt - Lào. Chúng đã chiếm lĩnh hầu hết các điểm cao hai bên Nam Bắc  đường số 9, thiết lập bình phong bảo vệ đội hình hành quân chủ yếu tại khu vực Bản Đông. Về phía ta, đã tổ chức chặn đánh địch trên toàn khu vực. Trên hướng chủ yếu, trong 2 ngày 8 và 9- 2-1971, ta chặn đánh địch quyết liệt ở khu vực từ Huội San đến Bản Đông bao gồm Lữ đoàn dù 1 và Thiết đoàn 17 quân đội Sài Gòn hành quân bằng trực thăng và xe cơ giới. Ta bắn rơi và bắn cháy nhiều máy bay, xe thiết giáp các loại của địch.Trên hướng đường số 9, ta tập trung bẻ gãy cánh quân phía bắc Đường 9. Ngày 12 và 13- 2-1971, Trung đoàn 24 tấn công đường số 9, cắt đứt một số đoạn hiểm yếu từ tây Lao Bảo đến đông Bản Đông, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch và hàng chục xe quân sự. Tại khu vực phía Bắc đường 9, ta phản công mãnh liệt tại các điểm cao 655, điểm cao 543, 316, 500, bắn rơi 14 máy bay lên thẳng chở quân, loại khỏi vòng chiến đấu 20 tên địch. Tại khu vực hướng đông đường số 9; Đoàn đặc công 126 bộ đội hải quân đánh 4 trận, diệt 6 tàu LST của địch, phá hủy 2000 tấn hàng hóa quân sự. Các trận địa pháo của ta bố trí tại khu vực này nã hàng trăm quả đạn cối các loại vào các căn cứ của địch gây cho chúng nhiều tổn thất to lớn. Như vậy là ở cả 3 hướng tiến công của địch trên đường số 9 đều bị ta chặn đánh quyết liệt. Phát huy thắng lợi, từ ngày 16-2 đến ngày 7-2-1971; ta quyết định chọn khu vực bắc đường 9 làm hướng phản công chủ yếu, điểm cao 500 làm mục tiêu then chốt và điểm cao 543 là mục tiêu đặc biệt quan trọng.

Quân ta tấn công tổng lực, chiến sự diễn ra vô cùng ác liệt và cuối cùng, ta đã làm chủ những cứ điểm này. Ngày 8-3-1971, quân ta trên các hướng đồng loạt phản công địch, đập tan mọi cố gắng của địch tiến lên Sê Pôn, buộc chúng phải co về phòng ngự. Hơn 40.000 quân ngụy tham gia cuộc hành quân Lam Sơn 719 rơi vào tình thế khốn đốn. Nhiều khu vực từ Lao Bảo đến Sê Pôn, các đơn vị địch đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt.

Đợt 3 (từ ngày 13-3 đến ngày 23-3-1971): Toàn bộ lực lượng của ta tham gia chiến dịch được lệnh gấp rút chuyển từ thế phản công sang thế tiến công trên toàn tuyến.Ta tiếp tục tiến công tiêu diệt địch ở phía nam Đường 9, tập trung lực lượng vây ép Bản Đông. Bị uy hiếp tiêu hao lớn, địch bỏ xe, pháo luồn rừng rút chạy. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, ngày 18-3, quân địch buộc phải tháo chạy khỏi Bản Đông, ta truy kích tiêu diệt thêm một số. Ngày 20-3, khu vực Bản Đông được hoàn toàn giải phóng. Sau khi giải phóng Bản Đông và đánh địch rút chạy, ngày 23-3-1972, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định kết thúc chiến dịch phản công Đường 9- Nam Lào thắng lợi rực rỡ; cuộc hành quân Lam Sơn 719 của địch thất bại thảm hại. Kết quả: Sau gần 50 ngày đêm liên tục phản công và tiến công, ta đã đánh thiệt hại nặng 2 lữ đoàn, 1 trung đoàn bộ binh, 8 tiểu đoàn pháo binh, 4 thiết đoàn xe tăng, thiết giáp; loại khỏi vòng chiến đấu hơn 21.000 tên địch, bắn rơi và phá hủy 556 máy bay, 528 xe tăng, xe bạc thép, 24 khẩu pháo, bắn rơi 52 máy bay và nhiều phương tiện khí tài quân sự khác của địch...

Một số diễn biến trong Chiến dịch (Theo tác phẩm “Chiến dịch phản công Đường 9 – Nam Lào” của AHLLVT –Thiếu tướng Lê Mã Lương): Ngày 8-2-1971 trên hướng tấn công chủ yếu của địch, quân ta đã bẻ gãy nhiều đợt tấn công của đich. Đặc biệt, 16 giờ chiều ngày 8-2-1971 tại khu vực đường 16, Trung đoàn 88 thuộc Sư đoàn 308, vừa cơ động tới A Lia thì gặp địch đổ quân xuống điểm cao 316, sát trận địa pháo của ta ở Làng Sen. Tiểu đoàn 6 của Trung đoàn 88 được lệnh vận động tấn công, bao vây đánh thiệt hại nặng Đại đội 3, Tiểu đoàn biệt động quân 21, diệt 80 tên, bảo vệ an toàn trận địa pháo. Chiều 10 - 2, quân ta đánh địch ở Bản Đông, quyết tâm không cho chúng tiến lên Sê Pôn. Đêm 11-2, Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 88 và Đại đội 9, Tiểu đoàn 6, Trung đoàn 64 phối hợp tập kích Tiểu đoàn 2 thuộc Lữ đoàn dù số 1 ở Bắc Sê Num. Ngày 12-2 Tiểu đoàn 4 (thiếu Đại đội 2) được tăng cường Đại đội 9, Tiểu đoàn 6 thuộc Trung đoàn 88 tập kích Tiểu đoàn biệt động quân 39 của địch vừa đáp máy bay trực thăng xuống điểm cao 500...khiến quân địch sợ hãi phải co cụm lại không dám bung ra lùng sục ngoài căn cứ. 4 giờ sáng ngày 9-2-1971, từ Sở chỉ huy Trung đoàn 24 (Sư 304) Trung đoàn trưởng Lê Đắc Long nhận được điện của Tư lệnh trưởng Sư đoàn 308 Nguyễn Hữu An cho biết “địch đang tiến vào cầu Ka Ky và điểm cao 351, 311”. Ngay lập tức Trung đoàn trưởng điện cho Chính trị viên phó Đại đội 7 Lê Mã Lương lúc đó đang chỉ huy trung đội chốt chặn điểm cao 351. Vừa triển khai nhiệm vụ cho 3 tiểu đội bộ binh và tiểu đội hỏa lực theo chỉ thị của Trung đoàn trưởng, chưa kịp về vị trí chỉ huy thì cả trận địa chốt của C7 ngập chìm trong khói lửa, tiếng nổ của pháo binh và trọng liên từ trên máy bay trực thăng vũ trang địch bắn giữ dội...Trong 2 giờ chiến đấu, cán bộ chiến sĩ Đại đội 7 đã đánh lui 5 đợt tiến công của địch, tiêu diệt gần 2 đại đội lính dù và biệt động quân. Tiếp đó, ngày 11 và 12-2 tại khu vực cầu KaKy, các đơn vị súng máy cao xạ của Trung đoàn 24, Trung đoàn 102 chiến đấu dũng cảm, đã bắn rơi 30 máy bay lên thẳng của địch, khiến kẻ thù khiếp sợ.

khe sanh  anh 18
Bộ đội Trung đoàn 102 tiến công cao điểm 500. Ảnh tư liệu

Trong chiến dịch này, đồng chí Phùng Quang Thanh (nay là Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng) đã trực tiếp tham gia chiến đấu với cương vị được giao là Trung đội trưởng Trung đội 1, Đại đội 9, Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 64, Sư đoàn 320. Ngày 11-2-1971, Trung đội trưởng Phùng Quang Thanh trực tiếp chỉ huy một tiểu đội chốt giữ đồi Không Tên. Địch dùng 1 đại đội có máy bay yểm trợ, chia làm 2 mũi tấn công chốt. Phùng Quang Thanh chỉ huy tiểu đội chờ địch vào gần mới nổ súng, diệt 38 tên, đẩy lùi địch ra xa. Hai ngày sau địch lại tiến công lên chốt, Phùng Quang Thanh bị thương, cấp trên cho anh lui về tuyến sau, nhưng anh xin ở lại chiến đấu. Phùng Quang Thanh nhờ đồng đội tháo nắp 17 quả lựu đạn cho vào túi đeo quanh người nhờ y tá băng và treo cánh tay trái cho đỡ vướng rồi dẫn đầu tiểu đội xung phong đánh tạt sườn quân địch, phối hợp với đơn vị bạn diệt gọn 1 đại đội địch. Riêng tiểu đội do anh chỉ huy diệt 37 tên, bắt 1 tên, thu 2 súng. Sau trận thắng ở đồi Không Tên, quân địch không dám ra lùng sục dọc đường 16A...

Như vậy, sau 5 ngày quân địch liều mạng tiến công, từ ngày 8 đến 13- 2-1971, chúng đã bị đánh thiệt hại nặng, nhiều kế hoạch triển khai lực lượng của chúng đã bị ta phá vỡ, buộc chúng phải hủy bỏ hoặc điều chỉnh. Kế hoạch tác chiến của Bộ chỉ huy chiến dịch lúc này là kiềm chế địch trên các hướng, đồng thời thực hiện chia cắt đường 9, con đường độc đạo nối thông từ Quảng Trị của Việt Nam qua tỉnh Sa-van-na khệt của Lào, bao vây, cô lập lực lượng tinh nhuệ ở Bản Đông. Chặn lực lượng địch tiến lên Sê Pôn. Nếu quân địch chọc thủng tuyến bao vây, chia cắt để lên được thì ta lập tức tập trung lực lượng đủ mạnh buộc địch sa lầy và bị tiêu diệt lớn ở đó. Từng bước điều chỉnh lực lượng nhằm triển khai thế trận phản công trên toàn chiến dịch.

Thực hiện đúng kế hoạch tác chiến, ngày 15-2-1971 các đơn vị trên cả ba hướng chiến dịch bắt đầu mở đợt phản công, tiêu diệt địch:

Trên hướng chủ yếu, điểm cao 500 do Tiểu đoàn số 39 thuộc Liên đoàn biệt động quân số 1 ngụy chiếm giữ, được chọn là mục tiêu “đột phá khẩu”. Đây là  điểm cao khống chế có ý nghĩa về chiến thuật nằm sát trục đường 16b, nối đường 16A với Bản Đông. Địch cũng coi đây là một chốt chặn quan trọng trên hướng Bắc.

khe sanh  anh 19
Đại tá Nguyễn Văn Thọ (đi đầu) - Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn dù 3
 Ngụy bị bắt tại điểm cao 543 trong Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào. Ảnh tư liệu

Để có thể tiêu diệt điểm cao 500, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 308 quyết định chọn trung đoàn chủ công 102 do Trung đoàn trưởng Hoàng Ngọc Tý và Chính ủy Nguyễn Hữu Ích chỉ huy thực hiện trận đánh quan trọng này. Từ ngày 16- 2-1971 đến ngày 20-2-1971, quân ta dùng chiến thuật vây lấn hỏa lực chế áp, phá hoại các mục tiêu, gây khó khăn lớn cho máy bay địch tiếp ứng cho điểm cao 500. Vì vậy, quân địch chống trả ngày càng yếu ớt. Đến chiều ngày 20-2-1971, quân ta tiến công và hoàn toàn làm chủ điểm cao 500, tiểu đoàn biệt động quân 39 của địch bị xóa sổ.

Thừa thắng, trưa ngày 25-2-1971 được hỏa lực pháo binh chi viện, bộ binh Trung đoàn 64 và xe tăng phối thuộc tấn công vào căn cứ 31. Mặc dù địch tập trung pháo binh và không quân bắn ngăn chặn quyết liệt nhằm chi viện cho lực lượng phản kích, nhưng chiều 25-2 chiến sĩ Trung đoàn 64 đã làm chủ căn cứ 31, tiêu diệt gọn Tiểu đoàn dù 3, Tiểu đoàn pháo binh và Sở Chỉ huy Lữ đoàn dù số 3, bắt sống viên Đại tá Nguyễn Văn Thọ và toàn bộ cơ quan tham mưu lữ đoàn.

khe sanh  anh 20
Một số máy bay Mỹ bị bắn rơi trong Chiến dịch Đường 9- Nam Lào. Ảnh tư liệu

Như vậy là ở cánh phía Bắc, sau khi đổ quân chiếm các điểm cao, địch đã bị ta vây hãm, ngăn chặn, bị diệt từng đơn vị, buộc địch ở Bản Đông phải cơ động lực lượng lên phản kích cứu nguy, nhưng vẫn không thể cứu vãn được tình thế.

Cho đến ngày 3-3-1971, ta đã chặn đứng được địch ở Bản Đông không cho địch phát triển lên Sê Pôn bằng lực lượng thê đội 1 chiến dịch, buộc địch phải sử dụng thê đội 2 chiến dịch tiếp tục kế hoạch tiến đánh lên Sê Pôn với mục tiêu hạn chế. Các lực lượng của ta giữ vững Sê Pôn bảo đảm an toàn tuyến vận chuyển chiến lược bao vây, chia cắt địch đồng thời điều động lực lượng chuẩn bị điều kiện để thực hành phản đột kích lớn tiêu diệt lực lượng chiến dịch của địch.

Lực lượng thê đội 1 và cả thê đội 2 chiến dịch của địch đều tổn thất nặng nề. Trong quá trình ngăn chặn và phá thế tiến công của địch, các lực lượng của ta, đặc biệt là các lực lượng tại chỗ, các chốt chiến dịch đã phát huy tốt tác dụng đánh ngăn chặn, hạ máy bay, diệt cơ giới, nhiều phân đội đánh có hiệu suất cao, các đơn vị B70 và Sư đoàn 324 đã tiêu diệt 1 bộ phận sinh lực địch, ngăn chặn từng bước và chặn đứng được địch ở Bản Đông. Không cho địch thực hiện kế hoạch tiến lên Sê Pôn bằng lực lượng thê đội 1 chiến dịch; phản đột kích mạnh mẽ, bẻ gãy hoàn toàn cánh Bắc của địch, đánh thiệt hại nặng cánh Nam, triển khai được đội hình chiến dịch để hình thành thế bao vây địch vững chắc.

Để chuẩn bị điều kiện đánh đòn tiêu diệt quyết định của chiến dịch, Bộ tư lệnh chiến dịch chủ trương: Tiêu diệt lực lượng của Sư đoàn bộ binh 1 ở nam đường 9 là nơi địch sơ hở, đồng thời giữ vững Sê Pôn, Na Bo, chia cắt, bao vây và diệt địch ở các điểm cao 550, 532, giữ vững Sa Đi - Mường Noọng.

khe sanh  anh 12
Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng các đồng chí Chỉ huy Đoàn 559
 trong Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào. Ảnh tư liệu

Thực hiện chủ trương trên, Bộ Tư lệnh chiến dịch điều Trung đoàn 64 của Sư đoàn 320 lên phía tây nhằm tăng cường giữ Sê Pôn, điều Trung đoàn 66 của Sư đoàn 304 cơ động về phía Tây dự bị cho Sư đoàn 2 và dự bị cho hướng Bản Đông, sử dụng Sư đoàn 2 (thiếu Trung đoàn 31) để tiến công tiêu diệt Sư đoàn 1 bộ binh địch, sử dụng Sư đoàn 324 (thiếu Trung đoàn 2) tiến công tiêu diệt Lữ đoàn 147 Thủy quân lục chiến.

Đồng thời, sử dụng 3 Trung đoàn: Trung đoàn 2 của Sư đoàn 324, Trung đoàn 102 của Sư đoàn 308 và Trung đoàn 24 của Sư đoàn 304 để cắt Đường 9 đoạn từ Lao Bảo đến Bản Đông, đồng thời đánh địch từ Lao Bảo đến Khe Sanh; Sư đoàn 2 cùng với lực lượng phối thuộc, tăng cường bao vây, tiêu diệt Sư đoàn bộ binh số 1 ngụy; sử dụng Sư đoàn 308 để chuẩn bị tiêu diệt địch ở Bản Đông. Pháo binh chiến dịch được sử dụng tập trung để đánh Bản Đông, Lao Bảo, Khe Sanh. Sau khi điều chỉnh và cơ động lực lượng, ta đã hình thành thế bao vây, chia cắt cô lập địch trên từng khu vực, trong khi ta vẫn giữ vững tuyến vận chuyển chiến lược, sẵn sàng chuẩn bị chuyển sang thực hành tiến công lớn tiêu diệt lực lượng chiến dịch của địch.

Ngày 12-3-1971, ta mở đợt 3 chiến dịch thực hiện đòn tiêu diệt lực lượng địch ở Bản Đông. Trung đoàn 102 thực hiện cắt đường 9, trong trận đánh ở điểm cao 311 Trung đoàn đã đánh lui 20 đợt phản kích của Lữ dù số 2 diệt 450 tên địch, bắn cháy 65 xe tăng, xe thiết giáp, bắn rơi 3 máy bay. Tại khu vực điểm cao 351, các chiến sĩ Đại đội 2, Tiểu đoàn 4 và Đại đội 7, Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 24, Sư đoàn 304 kiên trì giữ vững trận địa chốt. Như vậy, các điểm chốt chặn của ta tại các điểm cao 311, 334, 351 đã chặn đứng mọi hoạt động tiếp ứng của địch trên đường 9.

Sáng ngày 16-3-1971, Sư đoàn 2 - Sư đoàn trưởng là đồng chí Nguyễn Chơn - được tăng cường Tiểu đoàn 3 của Trung đoàn 48, Sư đoàn 320, thực hiện mệnh lệnh của Tư lệnh chiến dịch đánh địch, mục tiêu tiêu diệt là Trung đoàn 1 bộ binh thuộc Sư đoàn 1 ngụy khi chúng bỏ điểm cao 723 chạy về hướng Đông Bắc và lọt vào khu vực ta cài sẵn. Hai tiểu đoàn của Trung đoàn 141 từ các sườn núi cao đánh dốc xuống kẹp chặt toàn bộ quân địch. Cùng lúc, Tiểu đoàn 40 của Trung đoàn Ba Gia vận động đánh cắt ngang sườn đội hình của quân ngụy đang tháo chạy.

Các chiến sĩ ta từ 3 hướng dũng mãnh xung phong vào đội hình đang rối loạn của địch. Trung đội trưởng Lê Văn Phê của Tiểu đoàn 40 dẫn đầu 9 chiến sĩ dùng AK, lưỡi lê, lựu đạn đánh gần diệt 40 tên địch, riêng Phê diệt 26 tên; đến trưa ngày 16 tháng 3, toàn bộ Tiểu đoàn 1 của địch đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Lực lượng còn lại của Trung đoàn 1 bộ binh ngụy co cụm, phân tuyến để máy bay B52 ném bom vào đội hình quân ta. Sau hai ngày tiến công, Sư đoàn 2 đã tiêu diệt và bắt sống 1.750 địch, diệt gọn Trung đoàn 1 của Sư 1 ngụy; bắn rơi 50 máy bay các loại, thu hàng trăm súng, pháo, cối hạng nặng.

Ngày 19-3-1971, sau 7 ngày vận chuyển gạo, đạn phục vụ chiến dịch, Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 27 do Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Huy Hiệu và Chính trị viên tiểu đoàn Trần Xuân Gứng được lệnh cơ động diệt địch ở động Na, Kế Sách, Ba Lào. Đường xa, địa hình phức tạp, bộ đội thấm mệt nhưng với quyết tâm không để địch chạy thoát, toàn tiểu đoàn hành quân thâu đêm để kịp vào chiếm lĩnh trận địa xuất phát tấn công. Chờ xe tăng và thiết giáp địch lọt vào đội hình phục kích của tiểu đoàn trên đường số 9, Nguyễn Huy Hiệu dẫn mũi chủ yếu của tiểu đoàn đánh thẳng vào giữa đoàn xe. Sau 1 giờ chiến đấu, tiểu đoàn diệt gọn 28 xe tăng, thiết giáp, vận tải và tiêu diệt gần 100 tên Mỹ - Ngụy.

khe sanh  anh 22
Bộ đội và dân quân chống lầy đưa xe tăng vào
mặt trận trong chiến dịch Đường 9. Ảnh tư liệu

Trên hướng Bản Đông, các Trung đoàn bộ binh 66, 64, 36 có xe tăng, pháo binh, cao xạ phối hợp bao vây, chia cắt cụm cứ điểm Bản Đông. Trước sức tấn công mạnh mẽ của ta, ngày 18-3-1971 địch bắt đầu rút khỏi Bản Đông trong hoảng hốt, lo sợ, ta lập tức công kích vào toàn bộ khu vực Bản Đông. Sáng ngày 20 tháng 3 ta làm chủ hoàn toàn Bản Đông, diệt 1.762 tên, bắt sống 107 tên, thu và phá hủy 113 xe, 24 khẩu pháo, bắn rơi 52 máy bay.

Ở phía Đông, ngày 23-3-1971, phối hợp với lực lượng đường 9 Nam Lào, Bộ đội Đặc công B5 đã tập kích địch ở Tà Cơn, tiêu diệt 100 tên giặc lái và nhân viên kỹ thuật, phá hủy 42 máy bay lên thẳng, 6 xe tăng. Một bộ phận lực lượng của ta phát triển đánh vào khu vực Hướng Hóa, Khe Sanh làm cho địch náo loạn, co cụm không dám phản kích.

Trong những ngày từ 19 đến 23-3-1971, Bộ tư lệnh chiến dịch chuyển dịch đội hình về phía đông, kết hợp truy kích địch với tác chiến ngăn chặn, lần lượt tiêu diệt địch co cụm ở các khu vực Cha Ky, Huổi San, Lao Bảo, Làng Vây. 16 giờ chiều ngày 22 tháng 3, trong tình thế bị uy hiếp từ nhiều phía, đặc biệt là các điểm chốt dọc đường số 9 do Trung đoàn 24 và Trung đoàn 102 đảm nhiệm đánh địch ngày đêm và giữ vững trận địa không cho quân địch vượt qua; hàng trăm xe tăng, xe bọc thép, xe vận tải quân sự bị cháy, hỏng dọc các điểm chốt cũng góp phần cản trở, ùn tắc làm cho quân địch không thể cơ động trên đường 9 để về Lao Bảo, Khe

Sanh, địch buộc phải vứt bỏ lại toàn bộ xe tăng, pháo cơ giới còn đang nổ máy để vượt qua phía Nam sông Sêpôn, sông Sê-băng Hiên chạy bộ vào rừng. Do tổ chức hiệp đồng vây chặn phía N am không chặt, nên có một bộ phận lực lượng quân địch có cả sĩ quan chạy thoát. Ta tổ chức một số đơn vị vượt sông bắt sống được hàng trăm tàn binh. Cuộc hành quân “Lam Sơn 719” đánh ra đường 9 - Nam Lào của Mỹ - ngụy đã thất bại nặng nề và biến thành một cuộc tháo chạy hỗn loạn.

Kết thúc chiến dịch, ta đã diệt của địch 2 Lữ đoàn (Lữ đoàn dù 3 và Lữ đoàn 147 Thủy quân lục chiến), 1 Trung đoàn bộ binh (Trung đoàn 1 Sư l) và 5 Tiểu đoàn khác (Tiểu đoàn 39 biệt động quân, Tiểu đoàn 8 - lữ 1 dù, Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn 3, Tiểu đoàn 2 và 4 của Trung đoàn 2 - Sư đoàn l), 4 Thiết đoàn (4, 7, 11 và 17), 8 Tiểu đoàn pháo (3 Tiểu đoàn pháo của Sư đoàn 1, 2 Tiểu đoàn pháo của Sư đoàn dù, 1 Tiểu đoàn pháo của Lữ 147, 1 Tiểu đoàn pháo của biệt động quân và 1 Tiểu đoàn pháo của Lữ đoàn kỵ binh không vận), đánh thiệt hại nặng Sư đoàn dù, Sư đoàn 1 bộ binh, Sư đoàn thủy quân lục chiến. Bắn rơi, phá hủy hoặc thu giữ 556 máy bay (có 505 máy bay trực thăng), 43 tàu, xà lan, 1.138 xe quân sự (có 528 xe tăng và xe bọc thép), 112 khẩu pháo và súng cối cỡ lớn...

Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào năm 1971 đã giáng cho Mỹ - ngụy một đòn thất bại nặng nề về cả quân sự lẫn chính trị, cho ta nhiều kinh nghiệm quý báu về chỉ đạo chiến lược, chiến dịch, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật, làm phong phú thêm nghệ thuật quân sự Việt Nam, góp phần thiết thực vào việc chỉ đạo xây dựng huấn luyện và tác chiến cho lực lượng vũ trang trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

khe sanh  anh 23
Bên Tượng đài chiến thắng Làng Vây

Với thắng lợi to lớn toàn diện, chiến dịch phản công đường 9 – Nam Lào là biểu tượng sinh động của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Vinh quang thuộc về những người con đã xả thân vì Tổ quốc và chính sự hy sinh của những người con ưu tú ấy đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Ý nghĩa của chiến thắng Đường 9 - Nam Lào:

Trước hết, Chiến thắng Đường 9 - Nam Lào 1971 tác động mạnh đến cục diện chiến trường, giáng một đòn nặng vào chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ. Chiến thắng lịch sử đó thực sự đánh dấu bước trưởng thành mới của Quân đội ta, đặc biệt là nghệ thuật quân sự của ta. Đây là lần đầu trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quân đội ta đã thực hiện thắng lợi một chiến dịch phản công quy mô lớn bằng các lực lượng binh chủng hợp thành, đánh tiêu diệt quân chủ lực Ngụy được quân Mỹ chi viện hỏa lực và cơ động.

Chiến thắng lịch sử này có nghĩa chiến lược to lớn. Ảnh hưởng của nó vượt xa cả về không gian và thời gian. Chiến thắng này đã tác động vào cục diện chung của cuộc kháng chiến không chỉ của nhân dân Việt Nam mà cả nhân dân 3 nước Đông Dương. Với chiến thắng này, ta đã đưa nghệ thuật tác chiến phản công lên một trình độ cao và hoàn thiện. Đó là nghệ thuật lập thế ta, phá thế địch; nghệ thuật phối hợp ăn ý và hiệu quả cao về tác chiến chiến dịch giữa lực lượng cơ động và lực lượng tại chỗ, trên địa bàn rừng núi thưa dân.

Chiến thắng Đường 9 - Nam Lào còn là thành quả của nghệ thuật phối hợp giữa quân đội anh em hai nước Việt - Lào trong phạm vi chiến dịch; nghệ thuật kết hợp nhịp nhàng giữa các hướng của chiến dịch và cuối cùng là nghệ thuật chủ động kết thúc chiến dịch đúng lúc, đúng thời điểm.

Trong chiến dịch này, ta đã kết hợp phòng ngự với tiến công, bao vây đột  phá Bên Tượng đài chiến thắng Làng Vây Huyền thoại Đường 9 - Khe Sanh anh hùng tiêu diệt các cụm lực lượng có xe tăng, xe thiết giáp, kết hợp chốt chặn đánh địch đổ bộ đường không với cơ động tiêu diệt địch trên điểm cao; lùng sục vây quét với truy kích đánh địch rút chạy. Thành công lớn nhất của quân ta trong chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào là ta đã đánh thắng những thủ đoạn chiến thuật chủ yếu của địch như chốt điểm cao, đột phá bằng xe tăng thiết giáp, căn cứ hỏa lực, đặc biệt là chiến thuật cơ động bằng máy bay lên thẳng của chúng.

Quan trọng hơn, chiến thắng của quân và dân hai nước Việt Nam – Lào trong Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào đánh bại cuộc hành quân Lam Sơn 719 của Mỹ và Ngụy đã thể hiện tình đoàn kết gắn bó keo sơn giữa quân và dân hai nước cũng như sự đoàn kết và liên minh chiến đấu đặc biệt giữa Việt Nam và Lào. Đã 42 năm trôi qua, nhưng chiến thắng lịch sử Đường 9 – Nam Lào mùa Xuân năm 1971 mãi đi vào lịch sử như một minh chứng cho mối quan hệ đăc biệt giữa hai nước Việt - Lào anh em.

Ý nghĩa lịch sử của chiến thắng Đường 9 - Nam Lào năm 1971 vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay. Là lực lượng  nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ chiến lược này, Quân đội ta phải luôn nắm chắc, dự báo chính xác, đánh giá đúng tình hình, nhất là những diễn biến phức tạp liên quan, tác động đến QP-AN của đất nước. Trên cơ sở đó, chủ động tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước trong việc hoạch định đường lối, chiến lược bảo vệ Tổ quốc; đồng thời, có biện pháp đối phó hiệu quả với mọi tình huống xảy ra, không để bị động, bất ngờ, bảo đảm giữ vững môi trường hòa bình ổn định để phát triển toàn diện đất nước.

Bài học kinh nghiệm:

Trước hết là bài học về sự chỉ đạo chiến lược và chiến dịch tài tình, sắc bén trên cơ sở nắm vững tình hình địch, phán đoán chính xác âm mưu, khả năng, ý đồ hành động của chúng, đề ra chủ trương, quyết tâm và kế hoạch tác chiến đúng, kịp thời.

Sự chỉ đạo ấy bắt nguồn từ đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn, sáng tạo; từ nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân độc đáo; từ lập trường cách mạng triệt để, tư tưởng cách mạng tiến công, quyết tâm đánh bại hoàn toàn cuộc “Hành quân Lam Sơn 719” của Mỹ - Ngụy Sài Gòn. Trước hết, là đánh bại ý đồ của chúng: Đánh chiếm Sê Pôn, phá tuyến vận tải chiến lược của ta từ gốc, triệt phá kho tàng, nhằm làm cho lực lượng chủ lực của ta bị suy yếu, không thể đánh ập trung lớn trong mùa khô 1971 và cả trong năm 1972, buộc phải quay về hoạt động nhỏ lẻ, phân tán. Sự chỉ đạo tài tình của Đảng còn được thể hiện tập trung trong việc nắm vững và đánh giá đúng kẻ địch, hạ quyết tâm chính xác, tổ chức thực hành chiến dịch chu đáo, linh hoạt, khẩn trương, đạt mục đích kiên quyết của chiến dịch, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đề ra.

khe sanh  anh 24
Tượng đài liên minh chiến đấu Lào - Việt đã làm nên chiến thắng Đường 9 - Nam Lào năm 1971

Hai là, bài học về sự chủ động chuẩn bị chiến trường và phát huy sức mạnh tổng hợp của lực lượng cơ động kết hợp với lực lượng tại chỗ, của các binh chủng, của ba thứ quân trong suốt quá trình thực hành chiến dịch.

Với tầm nhìn chiến lược, tư duy quân sự sắc sảo, nên ngay sau khi quân Mỹ vào tham chiến ở chiến trường miền Nam, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương chủ trương phân định, tổ chức lại chiến trường, nhằm đáp ứng yêu cầu tác chiến với đối tượng mới. Theo phương hướng đó, tháng 6-1966, Quân ủy Trung ương đã  quyết định thành lập Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị (mật danh B5) phụ trách địa bàn từ Vĩ tuyến 17 đến Bắc sông Thạch Hãn, từ Cửa Việt đến Khe Sanh, Hướng Hóa. Đây là hướng tiến công quan trọng, một chiến trường đánh tiêu diệt, thu hút, giam chân một lực lượng lớn quân Mỹ và quân ngụy Sài Gòn; tạo điều kiện cho các chiến trường khác tiến công địch, đặc biệt là vùng đồng bằng Trị - Thiên, đồng thời ngăn chặn chúng mở rộng chiến tranh trên bộ ra miền Bắc.

Một trong những nét đặc sắc nhất về nghệ thuật tác chiến trong Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào - một chiến dịch mà ta đã sử dụng nhiều binh chủng kỹ thuật và thực hành tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn - là đã phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, các binh chủng; đặc biệt là sự phối hợp chặt chẽ giữa lực lượng cơ động và lực lượng tại chỗ trong suốt quá trình thực hành chiến dịch. Thực tiễn Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào cho thấy, việc tổ chức, chuẩn bị chiến trường cho chiến dịch có quy mô lớn như thế phải thực hiện tốt các nội dung: Tổ chức hệ thống đường cơ động; trinh sát chiến trường tổ chức căn cứ hậu cần, kỹ thuật; dự trữ vật chất; bảo đảm  hệ thống thông tin chỉ huy; xây dựng công sự trận địa vững chắc, v.v..

Ba là, bài học về xây dựng khối chủ lực cơ động mạnh, đảm bảo cho những trận đánh then chốt, tiêu diệt lớn quân địch, giành thắng lợi quyết định. Bên cạnh việc chuẩn bị tốt chiến trường, còn phải có lực lượng mạnh (bao gồm lực lượng tại chỗ và chủ lực cơ động), đủ sức hoàn thành nhiệm vụ, mục tiêu chiến lược, chiến dịch đặt ra. Yêu cầu chiến lược đối với Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào nhằm hai mục tiêu cơ bản: Vừa tiêu diệt lực lượng chủ yếu của địch, vừa bảo vệ vững chắc tuyến vận tải quân sự chiến lược Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh. Để hoàn thành nhiệm vụ trên, chúng ta đã chủ động thực hiện tốt công tác xây dựng, tổ chức lực lượng, trước hết là lực lượng tại chỗ (Đoàn 559, B4, B5); đồng thời, xây dựng khối chủ lực, gồm: Các sư đoàn bộ binh có biên chế hỏa lực mạnh, phương tiện chiến đấu lớn, có khả năng cơ động cao. Ngay từ tháng 10-1970, ta đã thành lập Binh đoàn B70 - một dạng tổ chức quân đoàn binh chủng hợp thành, gồm 3 sư đoàn (304, 308, 320) và các trung đoàn, tiểu đoàn binh chủng. Đến đầu năm 1971, nhằm thống nhất chỉ huy các lực lượng trên toàn Mặt trận Đường 9, ta hình thành tổ chức mới mang mật danh B702, với nòng cốt 5 sư đoàn chủ lực (304, 308, 320, 324, 2).

Quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của các sư đoàn gắn liền với những chiến dịch lớn trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược. Trong số 5 sư đoàn ta sử dụng trong Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, có 3 đơn vị ra đời từ thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (304, 308, 320), 1 Sư đoàn (324) ra đời tại chiến trường nóng bỏng Trị - Thiên và 1 Sư đoàn (2) hình thành trên mảnh đất Khu 5 đi đầu diệt Mỹ. Đây là lần đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Quân đội ta sử dụng 5 sư đoàn trong một chiến dịch. Điều đó cho thấy vị trí quan trọng của chiến dịch này trong tính toán chiến lược của cả ta và đối phương.

Bốn là, bài học về thực hiện tốt công tác bảo đảm hậu cần - kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu chiến đấu liên tục, dài ngày, ác liệt của các lực lượng tham gia chiến dịch. Trong chiến tranh, công tác bảo đảm hậu cần - kỹ thuật là nhiệm vụ không thể thiếu, một nhân tố quan trọng góp phần quyết định thắng lợi. Trong Chiến dịch phản công Đường 9 – Nam Lào (1971), chúng ta đã đưa vào chiến đấu một lực lượng lớn, tác chiến binh chủng hợp thành, đòi hỏi công tác bảo đảm hậu cần - kỹ thuật phải được chuẩn bị, tổ chức chu đáo, vững chắc, trên các quy mô: Hậu cần các đơn vị chủ lực cơ động, hậu cần tại chỗ, hậu cần chiến lược, chiến dịch và chiến đấu. Thực tiễn chiến dịch cho thấy, chúng ta đã thực hiện rất tốt yêu cầu trên.

Từ cuối năm 1970, cùng với sự hình thành Binh đoàn 70, lực lượng bảo đảm hậu cần cũng được chấn chỉnh, tổ chức thành đơn vị cấp cục (Cục Hậu cần Binh đoàn, gồm các bộ phận tham mưu, chính trị, vận tải, quân nhu, quân y, quân giới, xăng xe và các đơn vị trực hậu cần - kỹ thuật đã nhanh chóng triển khai lập kế  hoạch bảo đảm theo ý định tác chiến, tổ chức nghiên cứu chuẩn bị chiến trường ở khu vực Đường 9 - Bản Đông theo trục đường 16, hiệp đồng với Binh trạm 17 (Cục Vận tải) và Binh trạm 27 (Đoàn 559) để vận chuyển hàng từ binh trạm vào các cụm hậu cần chiến dịch. Quá trình chuẩn bị, bảo đảm hậu cần - kỹ thuật cho chiến dịch phản công rất phức tạp, nhiều khó khăn và thực sự là một kỳ công. Song, với sự nỗ lực cao, phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng, bộ phận bảo đảm của nhiều đơn vị, cùng với thuận lợi địa bàn chiến dịch gần hậu phương lớn miền Bắc, chúng ta đã tạo được mạng lưới hậu cần - kỹ thuật liên hoàn, vững chắc. Chỉ trong thời gian ngắn (1-1971), ngành hậu cần - kỹ thuật đã dự trữ được lượng vật chất bảo đảm trên các hướng chiến dịch lên tới 6.385 tấn, đủ cho 3 đến 6 vạn quân tác chiến trong thời gian từ 4 đến 5 tháng(8).

Năm là, bài học về sự phối hợp hoạt động chặt chẽ giữa các chiến trường,  đặc biệt là sự phối hợp chiến đấu giữa quân và dân Việt Nam - Lào, phát huy hiệu quả liên minh đoàn kết chiến đấu của ba nước Đông Dương. Ngay từ khi địch có ý định và triển khai thực hiện kế hoạch hành quân trên ba hướng, trong đó tập trung lực lượng lớn cho cuộc “Hành quân Lam Sơn 719”, chúng ta đã kịp thời nắm, đánh giá chính xác tình hình và nhận định đúng: Địch đưa ra lực lượng tuyến ngoài thì ở tuyến trong sẽ bộc lộ sơ hở lớn, ta có điều kiện để đánh phá kế hoạch bình định của chúng. Do đó, Bộ Chính trị đã chỉ Trên chiến trường Lào, ta đã cùng với LLVT của bạn đẩy mạnh hoạt động tác.

khe sanh  anh 25
Về Đường 9 hôm nay

Thắng lợi của Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào là minh chứng cho sự phối hợp chiến đấu nhịp nhàng, chặt chẽ, hiệu quả giữa các đơn vị bộ đội Việt Nam với các đơn vị bộ đội Pathét Lào thuộc Quân khu Nam Lào. Ta và Bạn đã sát cánh chiến đấu, bẻ gãy nhiều đợt tiến công của địch hòng chiếm Sê Pôn - mục tiêu then chốt của cuộc “Hành quân Lam Sơn 719”. Thắng lợi trên chiến trường Đường 9 - Nam Lào là chiến công chung, thấm đẫm tình đoàn kết chiến đấu keo sơn của quân và dân hai nước Việt Nam - Lào. Đó chính là bài học, là ý nghĩa quốc tế to lớn của Chiến dịch phản công Đường 9 – Nam Lào 1971./.

Kim Yến (st)

Còn nữa

Bài viết khác: