Cứ mỗi sau Đại hội của Đảng, đất nước lại có thêm niềm tin và động lực phát triển mới. Niềm tin và động lực ấy không chỉ ở chỗ Đảng ta đánh giá đúng thực trạng tình hình phát triển đất nước, đề ra đường hướng chính trị đúng đắn mà còn xác định rõ hơn, cụ thể hơn những giải pháp chính trị thực hiện thành công các nhiệm vụ đề ra trong 5 năm tới và những năm tiếp theo, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thành công của Đại hội Đảng lần thứ XII được thể hiện trong các quyết sách đúng đắn, đổi mới, phù hợp ý nguyện của toàn Đảng, toàn dân. Các văn kiện của Đại hội, là sản phẩm tổng kết sâu sắc lý luận và thực tiễn của 30 năm đổi mới; đồng thời, là sản phẩm kết tinh trí tuệ, thể hiện ý chí và nguyện vọng của dân tộc; là sự tiếp tục khẳng định, hoàn thiện và phát triển quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây cũng là bước phát triển và cụ thể hoá Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 của Đảng, tiếp tục xác định rõ hơn mục tiêu, nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân tộc trong giai đoạn mới đầy triển vọng và không ít thách thức. Những quyết định chính trị trọng đại của Đại hội cho phép chúng ta khẳng định rằng, Đại hội đánh dấu một bước trưởng thành mới của Đảng, tạo nên niềm tin và động lực phát triển mới, đáp ứng ý chí và nguyện vọng của toàn Đảng và toàn dân ta.
Trong suốt 30 năm thực hiện công cuộc Đổi mới, Đảng ta đã vững vàng đưa dân tộc ta vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nỗ lực, phấn đấu đạt được những thành quả quan trọng. Trong phát triển kinh tế, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) liên tục tăng, đặc biệt giai đoạn 1990-2010, trung bình tăng 7,3%/năm. Trong 5 năm trở lại đây, bất chấp nhiều khó khăn, chúng ta vẫn đạt được những thành tựu đáng chú ý với GDP năm 2015 tăng 6,68% và lạm phát được giữ ở mức dưới 5%. Quy mô và tiềm lực kinh tế được nâng lên; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý. Năm 2011, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đạt 1.260 USD/năm, năm 2015 đã tăng lên 2.200 USD/năm (số liệu của Ngân hàng Thế giới - WB), từng bước đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình, thể hiện sự quyết tâm và nỗ lực to lớn, không ngừng của Đảng và nhân dân ta.
Bên cạnh những thành tựu về kinh tế, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá, xã hội, y tế có bước phát triển. An sinh xã hội được quan tâm nhiều hơn và cơ bản được bảo đảm, đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững hoà bình, ổn định. Quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hiệu quả. Vị thế, uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được phát huy. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị được chú trọng và đạt kết quả quan trọng.
Những thành tựu to lớn đó, khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Những quyết sách của Đại hội một lần nữa tiếp tục biểu thị quyết tâm sắt đá của Đảng ta, kiên trì con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời giữ vai trò vô cùng quan trọng, có giá trị định hướng và chỉ đạo sâu sắc trong toàn bộ quá trình triển khai và tổ chức thực hiện phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu của Đại hội đề ra.
Thành công của Đại hội có ý nghĩa rất quan trọng, tạo nên niềm tin, động lực và sức mạnh cổ vũ to lớn toàn Đảng, toàn dân ta vượt lên mọi khó khăn thách thức, tranh thủ có hội mới, “tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Đường lối phù hợp với ý nguyện của lòng dân, đáp ứng với yêu cầu của thực tiễn và xu thế phát triển của thời đại. Vấn đề quan trọng, cốt lõi chính là làm sao cho các chủ trương, chính sách của Đảng được thấm nhuần sâu sắc trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong nước và có sức lan tỏa rộng rãi với kiều bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế, làm cho quá trình phát triển, hội nhập của nước ta ngày càng có hiệu quả cao hơn.
Để Nghị quyết của Đại hội sớm đi vào cuộc sống, ngay sau Đại hội, các tổ chức Đảng cần tổ chức tốt việc nghiên cứu, quán triệt sâu sắc Nghị quyết, các văn kiện Đại hội, tuyên truyền sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân về kết quả Đại hội; khẩn trương xây dựng, triển khai chương trình, kế hoạch hành động, đưa nghị quyết vào cuộc sống, khơi dậy niềm tin và động lực mới, tổ chức các phong trào thi đua yêu nước sâu rộng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Các cấp ủy phải coi đây là nhiệm vụ quan trọng đặc biệt trong công tác lãnh đạo nhiệm vụ chính trị năm 2016. Trong đó, chú trọng đổi mới công tác tuyên truyền, sớm hiện thực hóa Nghị quyết Đại hội XII của Đảng trên từng lĩnh vực cuộc sống.
Trước hết, tập trung đổi mới phương thức công tác tuyên truyền, tăng cường các hình thức phù hợp với nhu cầu của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Đại hội XII của Đảng đã dự báo, trong những năm tới, tình hình thế giới và khu vực sẽ còn nhiều diễn biến rất phức tạp, nhưng hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Hợp tác, cạnh tranh, đấu tranh và sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn ngày càng tăng. Cuộc cách mạng khoa học-công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin tiếp tục phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển nhảy vọt trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với đất nước ta. Tình hình ấy, đòi hỏi công tác tuyên truyền không thể không tiếp cận tới sự đổi mới phù hợp, đó là đa dạng về hình thức, linh hoạt về cách thức, sáng tạo trong phương pháp, đảm bảo đáp ứng nhu cầu thông tin đối với từng đối tượng, từng thành phần của xã hội. Công tác tuyên truyền phải bằng mọi cách làm cho các đối tượng trước hết thấm nhuần nội dung, bản chất của Nghị quyết và các văn kiện Đại hội; đồng thời xác định đúng trách nhiệm phải thực hiện Nghị quyết, biến Nghị quyết của Đảng thành hiện thực của cuộc sống. Nếu đảng viên và quần chúng nhân dân không nắm vững các nội dung cốt yếu của Nghị quyết, thì chắc chắn sẽ không có niềm tin để thực hiện. Các chủ trương, quyết sách của Đảng sẽ khó đi vào cuộc sống, thậm chí trở thành những “mớ lý luận suông”, tuyên truyền sẽ không đạt hiệu quả như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Tuyên truyền là đem một việc gì đó nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt được mục đích đó, là tuyên truyền thất bại”. Với nội hàm như vậy, bất luận trong hoàn cảnh nào, người tuyên truyền cũng phải thấm nhuần sâu sắc phương châm này.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến các yếu kém, bất cập trong quá trình triển khai nghị quyết vào cuộc sống như lâu nay, đó là sự hạn chế, bất cập của công tác tuyên truyền, thiếu gắn kết với thực tiễn, dẫn đến nhận thức và tầm nhìn của các cấp ủy, chính quyền, các doanh nghiệp và cộng đồng chưa đầy đủ, thiếu thống nhất về hành động trong quá trình thực thi nghị quyết, thậm chí có những bộ phận lợi dụng kẽ hở của pháp luật làm trái với nghị quyết của Đảng.
Công nghệ thông tin phát triển nhanh và mạnh mẽ, mạng xã hội có sức lan tỏa khủng khiếp, tác động không nhỏ đến nhận thức của người dân, làm cho nhận thức của người dân cũng khác trước rất nhiều, do đó việc tuyên truyền nghị quyết không thể “cứ nói lấy được” và “nói là được”, mà phải biết lựa chọn cách thức phù hợp với từng đối tượng, từng thành phần khác nhau để tuyên truyền. Chính vì vậy, sự đòi hỏi đổi mới nhanh nhạy các hoạt động tuyên truyền phù hợp với điều kiện hiện nay càng trở thành yêu cầu quan trọng, cấp thiết trong công tác lãnh đạo của Đảng.
Hai là, bám sát thực tiễn, nắm chắc yêu cầu của thực tiễn và nguyện vọng của nhân dân, lựa chọn nội dung phù hợp với từng đối tượng tuyên truyền, nhất là những nội dung mới mang tính đột phá, chiến lược được thể hiện trong Nghị quyết Đại hội nhằm tuyên truyền đạt hiệu quả cao nhất.
Lâu nay, bên cạnh sự chậm trễ trong đổi mới phương thức học tập, quán triệt và tuyên truyền Nghị quyết, việc lựa chọn nội dung để tuyên truyền vẫn còn nhiều bất cập, làm cho công tác tuyên truyền đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống gặp nhiều khó khăn, tẻ nhạt và thiếu hấp dẫn. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên còn thờ ơ với việc học tập, quán triệt nghị quyết. Điều đáng quan tâm là càng ở các tổ chức đảng cấp trên, tình trạng quán triệt và học tập nghị quyết lại thường diễn ra chiếu lệ và kém chất lượng. Nguyên nhân chủ yếu là người làm công tác tuyên truyền do chưa biết lựa chọn nội dung cần thiết, tạo ra các điểm nhấn cần quan tâm trong nghị quyết, làm cho người nghe bị cảm giác nhàm chán dẫn đến chất lượng hiệu quả tuyên truyền không cao. Đại hội XII của Đảng có sáu nội dung lớn, quan trọng cần phải tuyền truyền, quán triệt đầy đủ tới cán bộ, đảng viên và nhân dân. Trong đó, cần tập trung làm cho mọi người thấy rõ bối cảnh quốc tế và trong nước là thời kỳ có nhiều cơ hội lớn, nhưng cũng có nhiều nhân tố bất ổn, nhất là tình hình chính trị - an ninh thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến rất phức tạp, khó lường. Trong khu vực, tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trên Biển Đông tiếp tục diễn ra gay gắt, phức tạp. ASEAN trở thành cộng đồng, tiếp tục phát huy vai trò quan trọng trong duy trì hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác, liên kết kinh tế trong khu vực, nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức cả bên trong và bên ngoài.
Đối với nước ta, cần làm rõ bối cảnh và khả năng phát triển trong trong 5 năm tới. Đại hội XII của Đảng đã nhận định, đây là thời kỳ Việt Nam thực hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng đồng ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn nhiều so với giai đoạn trước. Kinh tế từng bước có nhiều cơ hội ra khỏi tình trạng suy giảm, lấy lại đà tăng trưởng, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế vĩ mô ổn định chưa vững chắc; nợ công tăng nhanh, nợ xấu đang giảm dần nhưng còn ở mức cao, năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh kinh tế thấp. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra tiếp tục tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới, nguy cơ “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp; khoảng cách giàu - nghèo, phân hoá xã hội ngày càng tăng, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp đáng lo ngại, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo đứng trước nhiều khó khăn, thách thức lớn. Tình hình chính trị - xã hội ở một số địa bàn còn tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định. Đây là những vấn đề mới mà văn kiện các Đại hội trước ít đề cập đến.
Trong tuyên truyền, chúng ta cần đặc biệt quan tâm đến những điểm mới ấy trong các văn kiện Đại hội, nhất là những điểm cốt lõi căn bản được đề ra trong 5 năm tới như: Sự hài hoà lợi ích; phát huy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc; phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy nhân tố con người, vai trò của khoa học - công nghệ; tiếp tục đổi mới tư duy, cơ chế, chính sách, tổ chức... là những nhân tố quan trọng tạo thành động lực tổng hợp để đổi mới và hội nhập để tuyên truyền. Và, ngay cả trong những điều “cốt lõi căn bản ấy” cũng không phải ở đâu, lúc nào cũng đem tất cả để rao giảng mà phải biết lựa chọn từng nội dung phù hợp, tạo ra những điểm nhấn thuyết phục cho từng đối tượng tuyên truyền.
Ba là, tăng cường sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy trong công tác tuyên truyền. Để Nghị quyết Đại hội XII của Đảng thấm sâu vào cuộc sống, cấp ủy không thể “khoán trắng” cho đội ngũ làm công tác tuyên truyền, càng không thể phó mặc cho họ mà cấp ủy phải thường xuyên quan tâm từ việc xây dựng kế hoạch đến việc phê duyệt chương trình, nội dung, giám sát, kiểm tra, tổng kết đánh giá kết quả, thực hiện, điều chỉnh, khắc phục kịp thời các khiếm khuyết trong quá trình tổ chức thực hiện, tạo nên sự thống nhất, đồng thuận trong các cấp ủy và chính quyền. Bản thân mỗi ủy viên trong cấp ủy còn là những người tuyên truyền giỏi, năng động, sáng tạo trong quá trình đưa nghị quyết vào cuộc sống. Thông qua các hoạt động tuyên truyền, cấp ủy nắm chắc hơn tình hình thực tiễn và nguyện vọng của nhân dân để thay đổi phương thức tuyên truyền, góp phần làm phong phú hơn các chủ trương, chính sách của Đảng ở ngay trong từng đơn vị, cơ sở, đồng thời góp phần làm phong phú, sinh động hơn nghị quyết của Đảng trong cuộc sống.
Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy trong công tác tuyên truyền còn được thể hiện ở mức độ quan tâm thiết thực trong quá trình xây dựng đào tạo, bồi dưỡng, chính sách phát triển đối với đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền; tạo điều kiện về cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật giúp cho họ có đủ điều kiện phát huy kỹ năng, sở trường trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Xuân Bính Thân đã đến, Đất nước - Dân tộc đón Xuân có thêm niềm tin và động lực mới vững chắc từ những thành công của Đại hội Đảng lần thứ XII.
TS.Bùi Thế Đức
Theo Tạp chí Tuyên giáo
Tâm Trang (st)