Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập
khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2/9/1945
Cách mạng Tháng Tám thành công đến nay đã được 68 năm, ý chí quật cường, khát vọng độc lập dân tộc đã trở thành hiện thực trên sắc thắm cờ đỏ, sao vàng của dân tộc ta. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc thì đây là cuộc cách mạng giành chính quyền diễn ra trong thời gian ngắn nhất, tổn thất nhỏ nhất, nhưng thành công lớn nhất và diễn ra triệt để nhất. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam, kỷ nguyên của Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Để có được thành quả to lớn ấy thì công đầu phải thuộc về toàn thể nhân dân Việt Nam đã đồng lòng, đồng sức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam cùng nhất tề đứng dậy chống lại thực dân Pháp và phát xít Nhật. Bên cạnh đó vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những yếu tố quyết định nên sự thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám.
Sau nhiều năm bôn ba tìm đường cứu nước, nghiên cứu, học hỏi và tiếp thu có chọn lọc các nguồn giá trị văn hóa, tư tưởng ở khắp năm châu bốn bể. Người đặc biệt đề cao cuộc cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại - cuộc cách mạng của thời đại mới - thời đại xã hội chủ nghĩa. Dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mác-Lênin, học thuyết cách mạng tiên tiến nhất của thời đại, Người đã tìm ra con đường giải phóng dân tộc - đó là con đường cách mạng vô sản.
Năm 1924, Người từ Liên Xô về Quảng Châu (Trung Quốc), lập ra Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội, quy tụ những thanh niên - trí thức yêu nước ưu tú, mở nhiều lớp huấn luyện để đào tạo họ thành một lớp cán bộ tài năng, chuẩn bị cho sự nghiệp cứu nước vĩ đại. Ngay từ những bài học đầu tiên, Người đã chỉ ra rằng: “Cách mệnh là việc chung của cả dân chúng chứ không phải việc của một hai người”. “Cách mệnh An Nam với cách mệnh Pháp phải liên lạc với nhau... Công nông là người chủ cách mệnh”. “Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”. “Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả”.
Khi Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đứng ra thống nhất các tổ chức cộng sản, sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3/2/1930, điểm thứ nhất trong “Năm điểm lớn” được Người đưa ra coi như nguyên tắc để gạt bỏ các bất đồng trước đó và đi tới thống nhất phong trào cộng sản Việt Nam là: “Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đông Dương”.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn là một bước ngoặt quan trọng của cách mạng Việt Nam, tạo ra nhân tố hạt nhân quy tụ sức mạnh đoàn kết dân tộc, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Đây là tiền đề quan trọng nhất cho những bước phát triển tiếp theo và cho thắng lợi hoàn toàn của cuộc đấu tranh giải phóng và cho cuộc hồi sinh của dân tộc.
Cao trào Xô viết Nghệ - Tĩnh ngay từ đầu đã thể hiện là liên minh cách mạng công - nông, tạo nên yếu tố hạt nhân và nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc. Cao trào 1936 - 1939, với điều kiện trong nước và thế giới có nhiều biến đổi quan trọng, Đảng đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, đổi mới mạnh mẽ công tác vận động và tổ chức quần chúng. Đây là thời kỳ khối đoàn kết dân tộc được mở rộng và củng cố thêm một bước, lần đầu tiên Đảng Cộng sản Đông Dương đã chủ động bắt tay liên minh với một số tổ chức yêu nước, tiến bộ khác. Mặc dù từ tháng 10 năm 1930 cho đến 1939 khối đại đoàn kết còn nặng về giai cấp và mặt trận chưa thực sự có hiệu quả.
Với tư duy chiến lược sắc sảo, nhạy bén trước những biến đổi nhanh chóng của tình hình thế giới, Người đã đề nghị Quốc tế Cộng sản để Người về nước lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tháng 2 năm 1941, Bác về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Từ ngày 10 đến 19 tháng 5 năm 1941, Người đã trực tiếp triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương 8 (khóa I). Tại Hội nghị Người đã phân tích, nhận định sáng suốt tình hình quốc tế và trong nước, đề ra nhiều chủ trương quan trọng, nổi lên bao trùm xuyên suốt là giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ chống đế quốc, tay sai, giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tạm gác khẩu hiệu ruộng đất. Chủ trương đó đã thể hiện tư duy chiến lược, nhãn quan chính trị nhạy bén của Người, đồng thời phản ánh đúng tâm tư nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân là thoát khỏi ách áp bức “một cổ hai tròng” của đế quốc và phong kiến tay sai. Nghị quyết đó đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, được nhân dân đồng tình ủng hộ, đã thổi bùng ngọn lửa đấu tranh của toàn dân tộc chống lại bè lũ cướp nước và bọn tay sai bán nước.
Để chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, cùng với việc mở rộng các lớp huấn luyện chính trị và quân sự cho nhiều cán bộ cách mạng, Người đã quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh, một lực lượng cách mạng hùng hậu bao gồm tất cả các giai cấp, tầng lớp yêu nước trong xã hội. Đâu đâu cũng phát triển mạnh mẽ các đoàn thể quần chúng trong Mặt trận Việt Minh như: Nông dân cứu quốc, công nhân cứu quốc, thanh niên cứu quốc, phụ nữ cứu quốc, nhi đồng cứu quốc... Vai trò và sức mạnh to lớn của Mặt trận Việt Minh được phản ánh trong thực tiễn, có sức lôi cuốn hiệu triệu mạnh mẽ quần chúng đứng lên đấu tranh giành độc lập tự do.
Sự ra đời của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân ngày 22 tháng 12 năm 1944, cũng chính là đáp ứng yêu cầu của cách mạng để chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa sau này. Ngay sau khi ra đời Đội đã tiêu diệt gọn hai đồn giặc ở Phay Khắt và Nà Ngần, gây tiếng vang lớn. Tháng 4 năm 1945, để đẩy nhanh việc chuẩn bị khởi nghĩa, Bác Hồ cùng Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự Bắc kỳ quyết định đặt nhiệm vụ quân sự lên hàng đầu, thống nhất sát nhập Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân và Cứu quốc quân thành Việt Nam Giải phóng quân. Lực lượng cách mạng chính trị và lực lượng vũ trang không ngừng trưởng thành, lớn mạnh, đã tạo điều kiện vô cùng quan trọng cho Tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi nhanh chóng.
Với quan điểm đoàn kết mọi lực lượng có thể đoàn kết, tranh thủ mọi lực lượng có thể tranh thủ, thực hiện cho được mục tiêu độc lập, tự do. Người đã sáng suốt thiết lập mối quan hệ với Quốc dân đảng Trung Hoa và Mỹ, nhằm vừa tạo mối quan hệ với họ, vừa hạn chế dã tâm xâm chiếm Việt Nam khi vào Việt Nam giải giáp quân Nhật. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gặp đại diện Mỹ ở Côn Minh bàn phương thức hợp tác Việt Minh - Mỹ. Thực hiện kế hoạch hợp tác đó, Mỹ đã giúp Việt Minh một số súng đạn, thuốc men, nhân viên điện đài và một số quân tình nguyện Mỹ huấn luyện cho lực lượng vũ trang Việt Minh, cách sử dụng các loại vũ khí, điện đài và kỹ thuật, chiến thuật trận địa. Ngược lại, Việt Minh đã cung cấp cho Mỹ những thông tin quan trọng về hoạt động của Nhật, đã cứu và giúp đỡ nhiều phi công Mỹ rơi trên đất ta.
Tháng 5 năm 1945, phát xít Đức đầu hàng Liên Xô vô điều kiện, ở Đông Dương quân Nhật cũng đã bắt đầu hoảng loạn, phong trào cách mạng trong nước sôi sục. Với tầm cao trí tuệ tuyệt vời và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn phong phú, Người đã cùng với Đảng ta nắm chắc thời cơ cách mạng, kịp thời đề ra chủ trương, kế hoạch Tổng khởi nghĩa, động viên sự đoàn kết nhất trí của toàn dân tộc, để giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Bác đã khẳng định, lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu cũng phải giành cho được độc lập và “Cần phải tranh thủ từng giây, từng phút tình hình sẽ biến chuyển nhanh chóng, không thể để lỡ cơ hội”. Nắm chắc thời cơ đó Bác Hồ và Trung ương Đảng đã chuẩn bị gấp và triệu tập Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội đại biểu quốc dân ở Tân Trào. Tại đây, Người đã chủ trương phát động toàn dân Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trước khi quân Đồng minh vào nước ta giải giáp quân đội Nhật. Ngay sau đó, Bác Hồ đã kêu gọi Tổng khởi nghĩa tới đồng bào cả nước, trong đó khẳng định "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy dùng sức ta mà giải phóng cho ta... Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!...".
Đáp ứng lời kêu gọi của Bác Hồ và Đảng ta, nhân dân ta triệu người như một tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thành công. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi vĩ đại nhất của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX. Sự thành công của Cách mạng Tháng Tám đã thể hiện được sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn và biết tận dụng thời cơ lịch sử có một không hai của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Dù đã trải qua gần hai phần ba thế kỷ nhưng những bài học kinh nghiệm mà Cách mạng Tháng Tám đã để lại cho dân tộc ta về sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và biết tận dụng thời cơ lịch sử là vô cùng quý giá. Nhân kỷ niệm 68 năm Ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta càng phải đoàn kết hơn nữa, phấn đấu hơn nữa, cần phải nỗ lực học tập, nghiên cứu, thấm nhuần và thực hiện đường lối đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều hơn nữa, tốt hơn nữa, cao hơn nữa nhằm thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội, dân chủ, công bằng, văn minh.
Kim Yến