Cách đây 40 năm, với thắng lợi vĩ đại của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã giành thắng lợi hoàn toàn. Chiến công oanh liệt đó đã ghi vào lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam trang sử vàng chói lọi nhất và đi vào lịch sử thế giới như một sự kiện chính trị -quân sự mang tầm vóc thời đại.

          Tháng 7 năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta đã giành thắng lợi, Mỹ là một trong những nước dự hội nghị Giơ-ne-vơ đã không ký tuyên bố cuối cùng của hội nghị “thừa nhận về nguyên tắc độc lập, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam”. Mỹ nhanh chóng triển khai kế hoạch xâm nhập miền Nam nước ta để thay thế thực dân Pháp, thực chất là xâm chiếm miền Nam bằng chính sách thực dân mới. Mỹ dựng lên chính phủ bù nhìn Ngô Đình Diệm ở miền Nam với âm mưu là tiêu diệt bằng được phong trào yêu nước và cách mạng của nhân dân ta, chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ, làm bàn đạp tấn công miền Bắc và các nước xã hội chủ nghĩa.

          Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 15 (tháng 1 năm 1959) do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì đã xác định con đường, mục tiêu, phương pháp cách mạng miền Nam, mối quan hệ chiến lược của cách mạng hai miền Nam - Bắc, giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, phản ánh đúng nhu cầu của lịch sử, giải quyết kịp thời yêu cầu phát triển của cách mạng miền Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quần chúng nhân dân đã vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền ở nhiều nơi và phong trào “Đồng khởi” đã nhanh chóng lan rộng ra nhiều tỉnh, tạo thành một vùng giải phóng và căn cứ rộng lớn. Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam thành lập, các căn cứ địa cách mạng tại chỗ được khôi phục và mở rộng. Từ miền Bắc, đường vận tải chi viện vào Nam gồm đường bộ 559, đường biển 759 hình thành và từng bước mở rộng. Cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam thực sự đã được khởi động một cách độc đáo, khéo léo, phù hợp với năng lực cách mạng của nhân dân miền Nam, phù hợp với thời cơ lịch sử, gây bất ngờ cho kẻ địch, làm thất bại một hình thức thống trị điển hình của chủ nghĩa thực dân mới “Chiến tranh đơn phương” của Mỹ.

tran-danh-dai-ngay-nhat-1
Lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 17/7/1966

          Từ cuối năm 1960, hình thức thống trị bằng chính quyền tay sai độc tài phát xít Ngô Đình Diệm bị thất bại, đế quốc Mỹ bị động thay đổi chiến lược, chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, dùng quân đội ngụy tay sai làm công cụ tiến hành chiến tranh, với tiền của, vũ khí và sự chỉ huy của Mỹ, nhằm đè bẹp và tiêu diệt cách mạng miền Nam. Để đối phó với chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ, trên cơ sở thế và lực mới do cao trào “Đồng khởi” tạo ra, Đảng ta chủ trương chuyển cách mạng giải phóng miền Nam lên giai đoạn mới. Từ đây các cuộc khởi nghĩa từng phần phát triển lên thành cuộc chiến tranh cách mạng trên quy mô toàn Miền với hình thức tiến công “hai chân, ba mũi, ba vùng”, bằng ba mũi giáp công, nhân dân ta đã bẻ gãy những cuộc hành quân càn quét khủng bố của địch, hỗ trợ cho phong trào quần chúng đấu tranh đang diễn ra sôi nổi, rầm rộ làm lung lay ý chí bọn xâm lược, tay sai.

tran-danh-dai-ngay-nhat-2
Đại tướng Võ Nguyên Giáp trình bày kế hoạch trong cuộc họp Bộ Chính trị, hạ quyết tâm giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975

Với thất bại liên tiếp của ngụy quân, ngụy quyền buộc Mỹ phải “thay ngựa giữa dòng” bằng việc phế bỏ Diệm - Nhu, làm cho nền chính trị tay sai của Mỹ lâm vào cuộc khủng hoảng triền miên. Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ bị phá sản. Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, sử dụng quân Mỹ làm lực lượng cơ động, chủ yếu để tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta; quân ngụy làm lực lượng chiếm đóng, bình định, kìm kẹp nhân dân hòng đánh bại cách mạng miền Nam. Trước tình hình leo thang chiến tranh của địch và những khó khăn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta đã khẳng định sự thất bại không tránh khỏi của đế quốc Mỹ và hạ quyết tâm động viên lực lượng cả nước giữ vững chiến lược tiến công, nêu cao ý chí tự lực, tự cường, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế, kiên quyết đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Ngày 17 tháng 7 năm 1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi lịch sử, kêu gọi toàn dân đoàn kết một lòng, quyết tâm chống Mỹ, cứu nước. Người khẳng định: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song Nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi Nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.

          Thực hiện chủ trương của Đảng và Bác Hồ, quân và dân ta mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968. Trong lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cho đến thời điểm này, chưa có cuộc động binh và huy động lực lượng nào có quy mô lớn và khí thế cao như cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Cuộc Tổng tiến công của ta như “một đòn sét đánh” đối với địch, làm choáng váng cả nước Mỹ và chấn động dư luận thế giới. Buộc Mỹ phải ngồi đàm phán với ta tại Hội nghị Pari. Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ bị phá sản.

Khi Tổng thống Mỹ Ních-xơn lên cầm quyền đã thực hiện chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” tiếp tục thực hiện âm mưu bám giữ miền Nam. Thực chất của chiến lược này là “Đổi màu da trên xác chết”, “Dùng người Việt giết người Việt”, “Dùng người Đông Dương giết người Đông Dương” bằng tiền của và vũ khí của Mỹ, do người Mỹ chỉ huy. Trước tình hình đó, Đảng ta nhận định: Đông Dương đã trở thành một chiến trường thống nhất, kẻ thù chung của ba nước Đông Dương lúc này là đế quốc Mỹ xâm lược. Quân và dân ta đã phối hợp với Lào, Cămpuchia, đánh địch trên khắp chiến trường ba nước Đông Dương, đập tan các cuộc hành quân của địch. Ta quyết định mở cuộc Tiến công chiến lược trên toàn miền Nam giáng cho Mỹ-Nguỵ những đòn thất bại nặng nề, dồn Mỹ và chính quyền Thiệu vào thế yếu trầm trọng hơn. Để cứu vãn chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” khỏi sụp đổ, Ních-xơn trắng trợn mở lại cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc. Trong 12 ngày đêm bằng trí tuệ và sức mạnh Việt Nam “uy thế không lực Hoa Kỳ” bị đập tan, 81 máy bay Mỹ bị bắn rơi (trong đó có 34 chiếc B52 và 5 chiếc F111), buộc Mỹ phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc và ký kết “Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam” ngày 27 tháng 1 năm 1973. Đây là một bước ngoặt trong cuộc đấu tranh cách mạng của quân và dân ta, đã hoàn thành giai đoạn “đánh cho Mỹ cút”, tiến tới “đánh cho nguỵ nhào”.

          Nhưng với bản chất ngoan cố, đế quốc Mỹ không chịu từ bỏ âm mưu duy trì chế độ thực dân mới, chia cắt lâu dài đất nước ta. Mỹ tiếp tục tăng cường viện trợ để chính quyền Nguyễn Văn Thiệu liên tiếp mở các cuộc hành quân “tràn ngập lãnh thổ” lấn chiếm vùng giải phóng. Đầu năm 1975, trên cơ sở đánh giá so sánh lực lượng giữa ta và địch, nắm bắt thời cơ lịch sử, Bộ Chính trị đã hạ quyết tâm chiến lược, giải phóng miền Nam, đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh thực dân mới của Mỹ bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975.

tran-danh-dai-ngay-nhat-3
Năm cánh quân tiến về Sài Gòn

          Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, ngày 4/3/1975, bộ đội ta mở chiến dịch Tây Nguyên. Đây là trận đánh then chốt quyết định của chiến dịch, một trận điểm đúng huyệt, tiêu diệt nhiều lực lượng tinh nhuệ và khí tài chiến tranh của địch, làm rối loạn sự chỉ đạo chiến lược và đảo lộn thế phòng thủ của địch ở chiến trường.  Chỉ chưa đầy một tháng, ta giải phóng 12 tỉnh với 8 triệu dân, tiêu diệt 2 quân đoàn nguỵ, 35% sinh lực địch và hơn 40% vũ khí, khí tài, cơ sở vật chất chiến tranh bị phá huỷ. Tình thế hoàn toàn có lợi cho ta và bất lợi cho địch. Trước tình thế đó, ngày 31/3, Bộ Chính trị quyết định giải phóng miền Nam trong tháng 4/1975.

          Trên cơ sở những thắng lợi quyết định, ngày 14/4/1975, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Hồ Chí Minh nhằm giải phóng Sài Gòn - Gia Định và toàn miền Nam. Thực hiện tư tưởng chỉ đạo “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, quyết thắng”, lúc 17 giờ ngày 26/4, chiến dịch bắt đầu, quân ta nổ súng tiến công đồng loạt vào các mục tiêu, phá vỡ tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch.

          Ngày 29/4, ta tấn công làm tan rã 5 sư đoàn chủ lực ngụy. Sáng sớm ngày 30/4, quân ta mở đợt tổng công kích vào nội thành Sài Gòn, nhanh chóng thọc sâu đánh chiếm các mục tiêu then chốt: Sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng Tham mưu, Biệt khu Thủ đô, Tổng Nha Cảnh sát... Vào lúc 10 giờ 45 phút, Phân đội xe tăng thọc sâu của Quân đoàn 2 tiến vào Dinh Độc Lập. Quân ta bắt toàn bộ nội các của chính quyền Sài Gòn, buộc Tổng thống Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Cờ Tổ quốc tung bay trước tòa nhà chính của Dinh Độc Lập lúc 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975. Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã toàn thắng.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hoàn thành vẻ vang sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc kéo dài liên tục trong 30 năm của quân và dân ta. Với thắng lợi vĩ đại này, dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

          Đại thắng mùa Xuân 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh, là chiến thắng oanh liệt của sức mạnh chính nghĩa Việt Nam, của nền văn hoá Việt Nam, của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, của trí tuệ và tài thao lược của Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh tụ Hồ Chí Minh vĩ đại. Đảng ta đã khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một trong những chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc. Những bài học lớn rút ra từ trận đánh dài ngày nhất, khốc liệt nhất, hào hùng nhất thế kỷ này, mãi mãi là vũ khí tư tưởng, niềm tin bất diệt cho nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay”.

tran-danh-dai-ngay-nhat-4
Giải phóng miền Nam 30/4/1975

          Để có niềm vui chiến thắng, ngày hội lớn này, chúng ta tự hào về Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, với lòng thành kính và biết ơn vô hạn tưởng nhớ tới Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc, vị lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, đưa đất nước tới độc lập, tự do. Chúng ta kính cẩn nghiêng mình tưởng nhớ những Anh hùng liệt sĩ đã quên mình chiến đấu hy sinh trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì một lý tưởng cao đẹp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chúng ta bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc những Mẹ Việt Nam Anh hùng, các gia đình thương binh, liệt sĩ đã hiến dâng những người con yêu quý cho Tổ quốc.

Hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa có những thuận lợi mới, song cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố bất trắc, khó lường. Đông Nam Á trở thành địa bàn cạnh tranh quyết liệt về thị trường và tài nguyên; tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo của các nước lớn. Việc xuất hiện một số loại hình chiến tranh kiểu mới, như chiến tranh thông tin, chiến tranh mạng, sử dụng sức mạnh mềm thông qua các hoạt động kinh tế, ngoại giao, văn hóa kết hợp với “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ… là sức mạnh nguy hiểm. Trong nước, sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội, bên cạnh kết quả, thành tựu đã đạt được, vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, xuất hiện những vấn đề phức tạp mới, ảnh hưởng tới việc thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Tác động mặt trái của kinh tế thị trường và mở cửa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và gay gắt hơn. Những biểu hiện suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống cùng với sự xuống cấp của các giá trị văn hóa, tình trạng phân cực giàu nghèo… diễn biến phức tạp; các nguy cơ mà Đảng ta đã từng cảnh báo không những không suy giảm mà có mặt còn trầm trọng hơn.

Hội nghị Trung ương 8, khóa XI của Đảng khẳng định: Bất luận trong điều kiện hoàn cảnh nào, chúng ta đều phải thấy rõ tính phức tạp của diễn biến tình hình thế giới, khu vực và trong nước hiện nay, nêu cao ý chí quyết tâm và có biện pháp hữu hiệu để giữ vững an ninh quốc gia, bảo vệ Tổ quốc. Tiếp tục thực hiện mục tiêu, quan điểm, phương hướng, phương châm chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc mà Nghị quyết Trung ương 8, khóa IX đã đề ra. Đồng thời, phải nắm vững và vận dụng nhuần nhuyễn bài học của ông cha ta: “Dựng nước đi đôi với giữ nước”; “giữ nước từ khi nước chưa nguy”; có kế sách ngăn ngừa, loại bỏ các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Thực hiện cho bằng được: “kinh tế phải vững, quốc phòng phải mạnh, thực lực phải cường, lòng dân phải yên, chính trị - xã hội ổn định, cả dân tộc là một khối đoàn kết thống nhất”.

Những bài học lớn rút ra từ cuộc kháng chiến dài ngày nhất, khốc liệt nhất, hào hùng nhất của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX mãi mãi là vũ khí tư tưởng, là niềm tin bất diệt cho nhân dân ta thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

Nguyễn Thanh Huống

Bài viết khác: