Đạo đức công vụ được hiểu là các nguyên tắc, quy tắc, các chuẩn mực pháp lý trong thực thi công vụ của cán bộ, công chức. Đạo đức công vụ gắn liền với đạo đức xã hội, nhưng đồng thời đạo đức công vụ là một dạng đạo đức nghề nghiệp đặc biệt - đạo đức trong thực thi công vụ. Hiện nay, trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn liền với xu hướng hội nhập quốc tế toàn diện và Cách mạng công nghiệp 4.0 đặt ra những yêu cầu mới đối với đạo đức công vụ nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là gốc của người cách mạng. Bác chỉ rõ: “Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Người chính là một tấm gương sáng về chuẩn mực đạo đức công vụ - chuẩn mực đạo đức của người cách mạng.
Bác Hồ thăm nông dân xã Ái Quốc, tỉnh Hải Hưng, năm 1958. Ảnh tư liệu
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng. Người ví đạo đức cách mạng như gốc của cây, ngọn nguồn của sông, của suối: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo"(1). Mặc dù coi đạo đức là gốc, là nền tảng trong giá trị nhân cách của người cách mạng nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt đạo đức và tài năng trong mối quan hệ biện chứng với nhau, không tuyệt đối hóa đạo đức, coi nhẹ tài năng.
Đạo đức công vụ được thể hiện cơ bản ở các nội dung:
Một là, trung với nước, hiếu với dân. Trung với nước là trung thành với lợi ích của quốc gia, dân tộc, với sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng, với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nước là của dân, dân làm chủ đất nước, trung với nước là trung với dân, vì lợi ích của nhân dân, “bao nhiêu quyền hạn đều của dân”; “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”... Hiếu với dân nghĩa là cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là “đầy tớ trung thành của nhân dân”. Người nhắc nhở mỗi người đảng viên, mỗi người cán bộ từ trên xuống dưới đều phải hiểu rằng: Mình vào Ðảng để làm đầy tớ cho nhân dân, chứ không phải là “quan” nhân dân. Người luôn chỉ rõ cho mọi người thấy và hiểu rõ vấn đề cốt lõi của đạo đức cách mạng là: Việc gì lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì hại đến dân phải hết sức tránh. Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất hàng đầu của đạo đức cách mạng.
Hai là, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Đây là phẩm chất gắn bó chặt chẽ với phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân”. Tháng 6/1949, với bút danh Lê Quyết Thắng, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm “Cần, Kiệm, Liêm, Chính”. Trong tác phẩm này, Người giải thích như sau: 1) “Cần” là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai. Cần thì việc gì, dù khó khăn mấy, cũng làm được. Muốn cho chữ Cần có nhiều kết quả hơn, thì phải có kế hoạch cho mọi công việc. 2) “Kiệm” là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi. Cần với Kiệm, phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người. 3) “Liêm” là trong sạch, không tham lam. Chữ Liêm phải đi đôi với chữ Kiệm. Cũng như chữ Kiệm phải đi đôi với chữ Cần. Có Kiệm mới Liêm được. Vì xa xỉ mà sinh tham lam. Tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên đều là Bất Liêm. 4) “Chính” là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà. Cần, Kiệm, Liêm là gốc rễ của Chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có ngành, lá, hoa, quả mới là hoàn toàn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải Chính mới là người hoàn toàn. Tự mình phải Chính trước mới giúp được người khác Chính. Mình không Chính, mà muốn người khác Chính là vô lý. 5) “Chí công vô tư” là đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải trọng lợi ích của cách mạng hơn tính mệnh của mình. Phải hy sinh lợi ích của mình cho Đảng; việc của cá nhân và lợi ích của cá nhân để lại sau. Muốn chí công vô tư thì phải chiến thắng được chủ nghĩa cá nhân.
Ba là, yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình. Yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức công vụ của Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân loại, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Thương yêu con người phải tin vào con người. Với mình thì chặt chẽ, nghiêm khắc; với người thì khoan dung, độ lượng, rộng rãi, nâng con người lên, kể cả với những người lầm đường, lạc lối, mắc sai lầm, khuyết điểm.
Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng. Trong quá trình tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến nhiều nước trên thế giới, các nước tư bản, thuộc địa. Người đã chứng kiến cảnh cùng cực của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đồng thời thấy rõ cảnh sống xa hoa của bọn tư sản. Thực tế sinh động đã giúp Người đồng cảm và nhận thức rõ: Nơi đâu cũng có người nghèo như ở xứ mình, dù ở các nước thuộc địa hay chính quốc, họ đều bị áp bức, bóc lột tàn nhẫn bởi chủ nghĩa thực dân tàn ác. Người đi tới kết luận: Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: Giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: Tình hữu ái vô sản.
Những nguyên tắc cơ bản xây dựng đạo đức công vụ đó là:
Thứ nhất, phải tu dưỡng đạo đức suốt đời. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn luyện bền bỉ mới thành. Người chỉ rõ: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện cành trong. Có gì sung sướng vẻ vang hơn là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải phóng loài người”(2). Theo Người, tu dưỡng đạo đức phải trên tinh thần tự giác, tự nguyện, dựa vào lương tâm của mỗi người và dư luận của quần chúng.
Thứ hai, nêu gương đạo đức, lời nói đi đôi với việc làm. Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm. Nói đi đôi với làm trước hết là sự nêu gương tốt. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “... Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”(3). Sự làm gương của đảng viên với quần chúng, của cấp trên với cấp dưới, của thế hệ đi trước với thế hệ đi sau,.. là rất quan trọng. Người nhấn mạnh: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước... Hô hào dân tiết kiệm, mình phải tiết kiệm trước đã”(4).
Thứ ba, xây đi đôi với chống. Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết phải chống những biểu hiện phi đạo đức, sai trái, xấu xa, trái với những yêu cầu của đạo đức mới, chống “chủ nghĩa cá nhân”. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, cũng phải quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu”(5). Đối với từng người, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu “trước hết phải đánh thắng lòng tà là kẻ thù trong mình”. Với việc, với người thì nhất thiết phải phê phán, đấu tranh, loại bỏ những hiện tượng phi đạo đức, tàn dư đạo đức cũ. Hàng trăm thứ bệnh do chủ nghĩa cá nhân đẻ ra thì phải tiêu diệt, vì đó là cản trở lớn trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức hiện nay
Người cán bộ, công chức, viên chức có vai trò quyết định đến hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước, đến thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, trong đó đạo đức là cốt lõi của cán bộ, công chức, viên chức. Vận dụng tư tưởng của Người về đạo đức công vụ vào thực tiễn hiện nay, cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, tập trung nâng cao nhận thức cho cán bộ, công chức, viên chức, nhất là người đứng đầu về ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng và sự cần thiết của việc học tập, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công vụ. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, nhất là giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công vụ cần được quan tâm thực hiện nghiêm túc, thường xuyên, hiệu quả, qua đó nâng cao bản lĩnh chính trị vững vàng, ý chí, nghị lực để giải quyết những vấn đề, những khó khăn, thử thách trong thực tế công tác; có khả năng đề kháng với những cái xấu, tiêu cực, tránh được sự cám dỗ quyền lực, đặc quyền, đặc lợi, có thái độ phục vụ chuẩn mực, đúng đắn với nhân dân.
Thứ hai, tăng cường công tác quản lý cán bộ, đảng viên. Cần đẩy nhanh việc xây dựng các quy định, quy chế, nội quy trong thực thi công vụ và thực hiện nghiêm túc các quy định về công tác quản lý cán bộ, công chức, viên chức, nhất là cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo. Hoàn thiện cơ chế quản lý cán bộ, công chức, viên chức; tăng cường hiệu lực, hiệu quả kiểm tra, ngăn ngừa vi phạm, xây dựng cơ chế giám sát hoạt động thực thi công vụ của cán bộ, công chức, viên chức. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả kiểm tra, giám sát hoạt động công vụ của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là vai trò kiểm tra, giám sát của của các đoàn thể, nhân dân để kịp thời phát hiện, phê bình, uốn nắn sai phạm, khuyết điểm.
Thứ ba, xây dựng các quy định về đạo đức công vụ. Hiện nay, có nhiều quy định về các hành vi được phép thực hiện và những hành vi nghiêm cấm không được làm đối với cán bộ, công chức, viên chức trong Hiến pháp, một số chỉ thị, nghị quyết, văn bản luật… nhưng lại chưa rõ chế tài, chưa rõ cơ quan chịu trách nhiệm xử lý các vi phạm nên hiệu quả thực thi chưa cao. Vì vậy, cần phải có những quy định về đạo đức công vụ kèm theo chế tài phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh hiện nay. Bên cạnh đó cần luật hóa các vấn đề của đạo đức công vụ với các tiêu chí, quy định cụ thể, rõ ràng và khả thi là cần thiết để ngăn chặn sự xuống cấp đạo đức công vụ, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của cán bộ, công chức, viên chức, tiến tới xây dựng bộ máy hành chính trong sạch, vững mạnh, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa nhưng tư tưởng của Người về đạo đức công vụ vẫn còn nguyên giá trị, là thang giá trị căn bản để xây dựng đạo đức công vụ của nền hành chính nhà nước Việt Nam. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, những cám dỗ vật chất và tinh thần từ cuộc sống đã tác động đến đạo đức công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức rất mạnh mẽ. Nếu không rèn luyện và tu dưỡng đạo đức, cán bộ, công chức sẽ nhanh chóng xa rời mục tiêu phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, sa vào chủ nghĩa cá nhân, làm mất lòng tin của quần chúng, từ đó làm yếu đi hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu, học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công vụ là việc làm rất cần thiết, là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ năng lực, phẩm chất; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu./.
Đặng Đình Bình
---------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 5, tr292.
(2, 5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, tập 11, tr 612.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 1, tr.284.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 6, tr.16.