Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại, phát triển tất yếu của dân tộc - bài học truyền thống quý báu của tổ tiên ta trong lịch sử. Tuân thủ quy luật và kế thừa bài học truyền thống đó, Đảng ta đã vận dụng, phát triển thành hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trong đó bảo vệ Tổ quốc là điều kiện, tiền đề quan trọng để xây dựng và phát triển đất nước nhanh, bền vững. Nhận thức rõ điều đó, những năm qua, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, kết luận, chỉ thị, văn bản làm cơ sở để lãnh đạo, chỉ đạo toàn quân, toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; trọng tâm là Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) và Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đây là một trong hai chiến lược cơ bản, quan trọng hàng đầu của đất nước, đồng thời là chiến lược quốc gia bao trùm, văn bản pháp lý nền tảng mang tính chỉ đạo chiến lược đối với việc xây dựng và triển khai thực hiện các chiến lược chuyên ngành1.
Cụ thể hóa Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Bộ Chính trị (khóa XII) đã thông qua và ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16/4/2018 về Chiến lược quốc phòng Việt Nam; Kết luận số 31-KL/TW ngày 16/4/2018 về Chiến lược quân sự Việt Nam. Việc ban hành nghị quyết, kết luận về Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự nhằm tiếp tục khẳng định quan điểm nhất quán về nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với lực lượng vũ trang, sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, đồng thời là bước phát triển mới về tư duy, nhận thức của Đảng đối với công cuộc bảo vệ đất nước.
Chiến lược quốc phòng Việt Nam là chiến lược phòng thủ quốc gia, bảo vệ đất nước, sẵn sàng chống chiến tranh xâm lược; mang tính chất hoà bình tự vệ, bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; trong đó, đường lối chính trị đúng đắn là nhân tố quyết định, sức mạnh quốc phòng là then chốt, sức mạnh quân sự là đặc trưng, trực tiếp là sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang, nòng cốt là Quân đội nhân dân; xây dựng, củng cố lòng tin chiến lược với các nước, nhất là đối tác chiến lược và đối tác toàn diện, tạo thế để bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng mọi hình thái chiến tranh xâm lược nếu xảy ra. Chiến lược quân sự Việt Nam là nội dung nòng cốt, cụ thể hóa Chiến lược quốc phòng Việt Nam, là nghệ thuật sử dụng sức mạnh quân sự trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc; bộ phận chủ đạo của nghệ thuật quân sự Việt Nam; chỉ đạo nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật; là tổng thể phương châm, chính sách và mưu lược hoạch định trên nền tảng của nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân gắn với thế trận an ninh nhân dân...
Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, tạo thành hệ thống chiến lược nhằm mục tiêu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống và sẵn sàng đánh thắng mọi hình thái chiến tranh xâm lược. Trong đó, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc là chiến lược tổng thể quốc gia mang tính bao trùm, giữ vai trò chỉ đạo toàn diện hai chiến lược còn lại; Chiến lược quốc phòng và Chiến lược quân sự là hai chiến lược quốc gia chuyên ngành, hiện thực hóa và phục tùng sự lãnh đạo, chỉ đạo của Chiến lược bảo vệ Tổ quốc.
Triển khai thực hiện các chiến lược, thời gian qua, Đảng, Nhà nước, các cấp, ngành, địa phương, lực lượng vũ trang, nòng cốt là Quân đội đã tổ chức quán triệt, thực hiện đồng bộ, quyết liệt giải pháp đưa nội dung các chiến lược vào hoạt động thực tiễn, nâng cao ý thức, trách nhiệm của toàn dân trong bảo vệ Tổ quốc, tập trung xây dựng lực lượng, thế trận quốc phòng, nghiên cứu, phát triển nghệ thuật quân sự, triển khai chiến lược quốc phòng dưới sự lãnh đạo của Đảng và đạt nhiều kết quả quan trọng, góp phần làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ôn định để xây dựng và phát triển đất nước.
Thời gian tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó dự báo, chiến tranh quy mô lớn ít có khả năng xảy ra nhưng cạnh tranh chiến lược, xung đột cục bộ có thể diễn ra gay gắt hơn; cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm. Các vấn đề an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, khủng bố, thiên tai, dịch bệnh vẫn diễn biến phức tạp; đặc biệt, xuất hiện nhiều hình thái chiến tranh mới, làm thay đổi môi trường chiến lược, tác động sâu sắc, toàn diện tới Việt Nam. Trong nước, thế, lực và sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được củng cố, nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhưng chúng ta cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, nhất là trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư... Các thế lực thù địch tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội ngày càng công khai, quyết liệt và trực diện hơn. Để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, chúng ta cần tiếp tục quán triệt, thực hiện hiệu quả hơn nữa các chiến lược trên, trong đó, tập trung vào một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Trước hết, chúng ta phải thấy rằng, nhận thức đúng thì hành động sẽ khoa học, hiệu quả; trách nhiệm tốt thì kết quả bảo vệ Tổ quốc sẽ cao; đồng thời, tạo sự đồng thuận xã hội, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Bác Hồ đã dạy: “Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”2. Các cấp, các ngành, các địa phương, nhất là lực lượng vũ trang, trực tiếp là Quân đội cần làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục làm cho cả hệ thống chính trị và toàn dân nhận thức sâu sắc nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ chung của toàn xã hội, của đất nước, trong đó lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Nội dung tuyên truyền, giáo dục phải toàn diện, song cần tập trung cụ thể hóa mục tiêu, quan điểm, phương châm, phương thức, nguyên tắc, nhiệm vụ, giải pháp của các chiến lược làm cơ sở để vận dụng phù hợp với đặc điểm, điều kiện, nhiệm vụ của ngành, lĩnh vực, cơ quan, đơn vị, địa phương mình. Trên cơ sở nhận thức đúng, làm cho cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang và toàn dân nhận thức rõ ý nghĩa, tầm quan trọng và sự cần thiết phải bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống. Đây chính là thực hiện kế sách bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy”. Đồng thời, nhận thức được mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nhiệm vụ của cách mạng, đất nước, Quân đội; âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch,… từ đó, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, trách nhiệm đối với sự nghiệp giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ địa bàn và chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia.
Tập trung đổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức, biện pháp giáo dục, phát huy sức mạnh của hệ thống cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình từ Trung ương tới cơ sở; đẩy mạnh tuyên truyền trong hệ thống học viện, nhà trường trong và ngoài Quân đội cùng các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể địa phương; coi trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục, bồi dưỡng, phổ biến kiến thức quốc phòng và an ninh cho các đối tượng, làm cơ sở để đội ngũ này tuyên truyền, giáo dục cho toàn dân. Cùng với đó, cần tích cực đấu tranh với những tư tưởng, nhận thức lệch lạc, coi trọng nhiệm vụ phát triển kinh tế, xem nhẹ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nhất là tư tưởng cho rằng trong thời bình không cần xây dựng lực lượng vũ trang, Quân đội, nền quốc phòng toàn dân, gây tốn kém cho nền kinh tế đất nước,… dẫn đến mất cảnh giác, mắc mưu các thế lực thù địch, phản động.
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trong thực hiện các chiến lược.
Trên cơ sở nhận thức đúng vai trò, tầm quan trọng của các chiến lược đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, cấp ủy, người đứng đầu các bộ, ngành, địa phương và cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị lực lượng vũ trang cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt, triển khai thực hiện hiệu quả các chiến lược, nhằm đạt được mục tiêu đề ra là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước nhanh và bền vững. Cần chú trọng quán triệt, vận dụng đúng đắn mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp, khâu đột phá và tư tưởng chỉ đạo, phương châm, nguyên tắc, phương thức tiến hành các chiến lược vào nghị quyết lãnh đạo nhiệm kỳ và hằng năm bảo đảm phù hợp với đặc điểm tình hình, yêu cầu nhiệm vụ của ngành, lĩnh vực, địa phương, cơ quan, đơn vị mình làm cơ sở để tổ chức thực hiện. Tiếp tục quán triệt, thực hiện nhất quán nguyên tắc Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt đối với lực lượng vũ trang, sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.
Cùng với đó, cần quán triệt, thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, như: Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 22/9/2008 của Bộ Chính trị, Nghị định số 21/2019/NĐ-CP, ngày 22/02/2019 của Chính phủ về xây dựng khu vực phòng thủ; Luật quốc phòng, Sách trắng Quốc phòng, Luật giáo dục quốc phòng và an ninh, Luật nghĩa vụ quân sự... Tăng cường các biện pháp quản lý nhà nước về quốc phòng, bảo đảm các hoạt động quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc đúng phương hướng chính trị của đất nước, theo tư duy, nhận thức mới của Đảng, đúng pháp luật Việt Nam, luật pháp quốc tế và đạt hiệu quả thiết thực. Tiếp tục hoàn thiện vả tổ chức thực hiện có chiều sâu các cơ chế, quy chế, thông tư, văn bản, hướng dẫn, quy định dưới luật, nhằm cụ thể hóa chủ trương, đường lối, quan điểm quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc của Đảng trong thực tiễn, bảo đảm cho nội dung của các chiến lược đi vào cuộc sống, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc địa bàn, Tổ quốc trong mọi tình huống.
Ba là, phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang, trực tiếp là Quân đội nhân dân trong tổ chức thực hiện các chiến lược.
Công tác quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp chung của cả hệ thống chính trị và toàn dân, lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt và Quân đội là lực lượng chủ yếu, trực tiếp. Trong bối cảnh tình hình an ninh chính trị thế giới, khu vực diễn biến phức tạp hiện nay, nhất là việc tranh chấp chủ quyền biển, đảo trên Biển Đông, cùng sự chống phá quyết liệt của cả các thế lực thù địch, đòi hỏi phải phát huy hơn nữa vai trò của lực lượng vũ trang nhân dân, trọng tâm là Quân đội nhân dân. Trên cơ sở bám sát chức năng, nhiệm vụ, Quân đội cần tiếp tục quán triệt sâu sắc nội dung các chiến lược, phối hợp với các lực lượng liên quan nắm chắc tình hình thế giới, khu vực, trong nước, dự báo chính xác xu hướng vận động, phát triển của tình hình, tham mưu cho Đảng, Nhà nước các đối sách, giải pháp chiến lược, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu của các chiến lược đề ra; xử lý kịp thời, hiệu quả các tình huống quốc phòng, an ninh, không để bị động, bất ngờ cả về chiến lược, chiến dịch và chiến thuật. Trong đó, tập trung vào những khu vực, địa bàn trọng điểm về quốc phòng, an ninh, nhất là khu vực biên giới, biển, đảo. Các cơ quan, đơn vị trong toàn quân, đặc biệt là cơ quan quân sự các cấp cần phát huy vai trò nòng cốt, tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng, quân sự, xây dựng khu vực phòng thủ, xác định các biện pháp giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc địa bàn.
Trong giai đoạn hiện nay, các đảng bộ trực thuộc Trung ương đang tiến hành đại hội nhiệm kỳ 2020 - 2025, tiến tới Đại hội XIII của Đảng, toàn quân cần nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, duy trì nghiêm các chế độ, nền nếp sẵn sàng chiến đấu; tiếp tục rà soát quyết tâm, phương án, kế hoạch sẵn sàng chiến chiến đấu, phòng, chống cháy nổ, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, phòng, chống dịch bệnh; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác huấn luyện, diễn tập, sẵn sàng xử lý thắng lợi các tình huống. Đặc biệt, cần tập trung xây dựng, tổ chức luyện tập chặt chẽ, nghiêm túc phương án, kế hoạch bảo vệ Đại hội Đảng các cấp, phối hợp chặt chẽ với lực lượng Công an theo Nghị định 03/2019/NĐ-CP ngày 05/9/2019 của Chính phủ về phối hợp giữa Công an và Quân đội trong bảo vệ an ninh quốc gia,… quyết tâm bảo vệ an toàn tuyện đối đại hội đảng các cấp - nhiệm vụ chính trị trọng tâm trong năm của Đảng, các cấp, ngành, địa phương, lực lượng vũ trang và toàn dân. Toàn quân đề cao cảnh giác, nắm chắc tình hình, phát hiện, xử lý kịp thời, hiệu quả các tình huống, không để bị động, bất ngờ, bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh biên giới, lãnh thổ của Tổ quốc. Tiếp tục tổ chức xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trong đó có một số lực lượng được đầu tư tiến thẳng lên hiện đại, đảm bảo cho Quân đội ta có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu cao, đúng chủ trương tinh, gọn bộ máy của Trung ương, phù hợp với khả năng, điều kiện của đất nước, đủ sức bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.
Bốn là, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.
Thực tiễn luôn vận động, biến đổi, do vậy, chúng ta cần chú trọng làm tốt công tác tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Thông qua tổng kết thực tiễn trong quá trình triển khai thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự, rút ra những bài học kinh nghiệm, góp phần bổ sung, phát triển lý luận ở trình độ cao hơn, phù hợp với yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, trên cơ sở đó quay trở lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn mang lại hiệu quả thiết thực. Đối với Chiến lược bảo vệ Tô quốc, Trung ương đã tổng kết, đánh giá 10 năm thực hiện Nghị Quyết Trung ương 8 (khóa IX) từ 2003 - 2013 và ban hành Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI), tới đây, chúng ta tiếp tục tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về vấn đề này. Đối với Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự, đây là hai chiến lược mới nên các cơ quan tham mưu chiến lược của Bộ Quốc phòng, nhất là Viện Chiến lược Quốc phòng, Cục Tác chiến, Cục Dân quân tự vệ,... chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, nhà trường trong toàn quân, cơ quan quân sự các cấp tham mưu cho các bộ, ngành, địa phương, tổ chức sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng hằng năm và cả giai đoạn, làm cơ sở để Bộ Quốc phòng tham mưu cho Đảng, Nhà nước tổ chức tổng kết thực hiện các nghị quyết, kết luận của Đảng về các chiến lược ở cấp Trung ương. Nội dung tổng kết toàn diện, trong đó tập trung vào nhận thức, tư duy về bảo vệ Tổ quốc; hoạt động quân sự, quốc phòng; xây dựng, hoạt động của khu vực phòng thủ; xây dựng nền quốc phòng toàn dân; nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân; nghệ thuật quân sự; đối tượng, đối tác, v.v. Trong quá trình thực hiện, chú ý tính toàn diện, sâu sắc, nghiêm túc; đánh giá trung thực, khách quan; chỉ rõ kết quả đạt được, hạn chế, nguyên nhân, rút ra bài học kinh nghiệm, làm cơ sở điều chỉnh mục tiêu, yêu cầu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp, khâu đột phá cho giai đoạn tiếp theo đạt hiệu quả cao hơn.
Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự là kế sách, mưu lược bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy; là kết tinh truyền thống dân tộc với ý Đảng, lòng dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các chiến lược này là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, nòng cốt là lực lượng vũ trang trước Tổ quốc; góp phần tăng cường tiềm lực quốc phòng, nâng cao khả năng phòng thủ đất nước, sẵn sàng đánh thắng mọi hình thái chiến tranh xâm lược, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.
Đại tướng Ngô Xuân Lịch,
Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
Theo Tạp chí Quốc phòng toàn dân
Đức Lâm (st)
_____________________
1. Hai chiến lược cơ bản gồm: Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội và Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc. Các chiến lược chuyên ngành gồm: Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược An ninh, Chiến lược Đối ngoại và chiến lược chuyên ngành thuộc các lĩnh vực của đời sống xã hội.
2. Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 179.