Việc quán triệt, tổ chức thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần Cương lĩnh “Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” của Đảng trong 30 năm qua, đặc biệt là 10 năm thực hiện Cương lĩnh năm 2011, là quá trình đổi mới, phát triển về nhận thức và sáng tạo trong thực tiễn, đạt được những thành tựu quan trọng; đồng thời, nhận rõ những vướng mắc, những vấn đề đặt ra cần có giải pháp khả thi để giải quyết.

Kế thừa, bổ sung và phát triển Cương lĩnh “Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” năm 1991, Cương lĩnh năm 2011 của Đảng khẳng định: “Mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”1.

Nhất quán về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong Cương lĩnh, bám sát sự phát triển của thời cuộc, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX và khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, Đảng ta bổ sung đầy đủ và toàn diện hơn: nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc không chỉ là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, mà còn bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ nền văn hóa, giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, xác định rõ đối tác, đối tượng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta.

Đến Đại hội XI, Đảng ta đã đưa vấn đề “giữ vững chủ quyền biển, đảo” và “ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống” vào nhiệm vụ an ninh, quốc phòng, đồng thời nhấn mạnh “an ninh chủ động”. Đại hội XII của Đảng coi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc còn là: “Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái, đẩy lùi các loại tội phạm và tệ nạn xã hội, sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống; bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng”2. Nếu như trong Cương lĩnh chủ trương “kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế” thì Văn kiện Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh thêm: Kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại; tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh; xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân; có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến3. Cùng với đó, Đảng, Nhà nước còn xây dựng, ban hành một số chiến lược về: quốc phòng; quân sự; bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng; bảo vệ biên giới quốc gia,... và các luật: Quốc phòng năm 2018, Cảnh sát biển Việt Nam, Dân quân tự vệ, Lực lượng dự bị động viên, tới đây là Luật Biên phòng Việt Nam, v.v.. Đó là cơ sở quan trọng bảo đảm cho các hoạt động của lực lượng vũ trang đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, an ninh trong tình hình mới.

Quá trình thực hiện Cương lĩnh, cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân được bổ sung hoàn thiện, bảo đảm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Mọi hoạt động, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, ở đâu, bất kỳ cấp nào đều đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ, tuyệt đối của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.

Trong 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, đặc biệt là 10 năm thực hiện Cương lĩnh năm 2011 và các nghị quyết của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc chúng ta đã đạt nhiều thắng lợi quan trọng. Trong đó, thành tựu cơ bản, bao trùm là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; giữ vững môi trường hòa bình để phát triển đất nước; nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế, bất cập cả về nhận thức và tổ chức thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, như: cơ chế, chính sách, pháp luật về quốc phòng, an ninh chưa thật hoàn thiện. Kết hợp nhiệm vụ quốc phòng với an ninh; quốc phòng, an ninh với kinh tế - xã hội; quốc phòng, an ninh với đối ngoại chưa thật hài hòa, đồng bộ; cơ chế kiểm tra, giám sát nội dung kết hợp chưa thật cụ thể, rõ ràng, xử lý sai phạm thiếu kiên quyết. Sự phối hợp giữa xây dựng nền quốc phòng toàn dân với nền an ninh nhân dân, thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân chưa thật chặt chẽ, vẫn còn thiếu cơ chế và giải pháp cụ thể. Vấn đề “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống diễn biến phức tạp. Công tác nghiên cứu, đánh giá dự báo tình hình có mặt chưa cụ thể, kịp thời, v.v.

Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc theo Cương lĩnh trong thời gian tới nổi lên nhiều vấn đề hệ trọng, như: Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được triển khai như thế nào trong khi phải thực hiện thật tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế; việc ứng phó với chiến tranh công nghệ cao và các mối đe dọa an ninh phi truyền thống đang trở thành vấn đề nổi cộm; việc xác định đối tác, đối tượng, đồng minh; vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo,… đặt ra vấn đề hết sức bức thiết đối với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh của chúng ta. Do vậy, cần tiếp tục quán triệt, thực hiện đồng bộ một số giải pháp trọng tâm sau:

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và thường xuyên quán triệt, nắm vững đường lối, quan điểm, tư duy mới của Đảng về bảo vệ Tổ quốc, lấy đó làm kim chỉ nam cho việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Đây là bài học lớn nhất và là giải pháp quan trọng bậc nhất có ý nghĩa quyết định đến thành bại của việc thực thi nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Quá trình thực hiện Cương lĩnh, trên cơ sở đánh giá đúng tình hình thế giới, khu vực và trong nước, với tầm nhìn chiến lược và tư duy khoa học, nhạy bén, Đảng ta đề ra đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước. Nhờ đó, tạo ra sức mạnh tổng hợp to lớn trên cơ sở phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh trong nước với quốc tế, phát huy nội lực với tranh thủ ngoại lực, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình, an ninh, trật tự, an toàn xã hội để xây dựng và phát triển đất nước. Những nhiệm vụ quốc phòng, an ninh được hoàn thành tốt đều bắt nguồn từ đó và ngược lại.

Thứ hai, nắm vững và thực hiện tốt phương châm chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh. Phương châm chỉ đạo việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là vấn đề rất quan trọng, là cơ sở để xác định đúng mục tiêu, phương thức, cách thức để bảo vệ sự bất khả xâm phạm, bảo vệ lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Những nội dung trọng yếu là: Nắm chắc tình hình và giải quyết đồng bộ các vấn đề do thực tiễn đặt ra; dự báo đúng tình hình thế giới, khu vực, tình hình trong nước và từng địa bàn cụ thể; nhận rõ các thách thức quốc phòng, an ninh, các tình huống xảy ra; đưa ra các định hướng hành động chính xác, kịp thời, linh hoạt để đối phó có hiệu quả với mọi tình huống, không để bất ngờ, bị động. Mục tiêu tối ưu của việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh chính là ngăn ngừa, đẩy lùi các nguy cơ xung đột, bất ổn, sẵn sàng ứng phó và ứng phó thành công trong mọi tình huống. Nắm chắc các vấn đề đó chính là những giải pháp căn bản để thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm an ninh quốc gia. Nắm vững phương châm thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh để xây dựng lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân không ngừng lớn mạnh, tổ chức bộ máy tinh, gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tinh thông nhiệm vụ, sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ được Đảng và Nhân dân giao phó. Tăng cường thực lực quốc phòng, an ninh của đất nước, đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh theo hướng hiện đại và lưỡng dụng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.

Thứ ba, tăng cường công tác tư tưởng, đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội tạo điều kiện vững chắc cho việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho toàn dân về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; nhận thức rõ và vạch trần âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Tăng cường bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho các đối tượng. Lựa chọn nội dung và đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, giáo dục, phổ biến chính sách, pháp luật phù hợp với từng đối tượng, địa bàn. Chủ động đấu tranh tư tưởng làm thất bại âm mưu chống phá của các thế lực thù địch và hoạt động lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để chống phá, lôi kéo người dân tham gia. Đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; lấy phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ thường xuyên, trọng yếu. Giải quyết hợp lý, hài hòa việc phát triển kinh tế - xã hội với xây dựng nền quốc phòng toàn dân và xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

Thứ tư, sẵn sàng đối phó kịp thời với chiến tranh kiểu mới, chiến tranh công nghệ cao, mối đe dọa an ninh phi truyền thống. Thường xuyên theo dõi, nghiên cứu, nắm chắc sự phát triển của các hình thức chiến tranh công nghệ cao, chiến tranh kiểu mới. Nghiên cứu, giải quyết đồng bộ các vấn đề chiến lược, từ quan điểm, nguyên tắc, phương thức và nội dung, cách thức tác chiến. Tập trung xây dựng lực lượng, vũ khí, trang bị, phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh đi thẳng vào hiện đại và ứng dụng công nghệ cao; nghiên cứu sản xuất các trang bị, vũ khí hiện đại của Việt Nam để ứng phó với tình hình. Trong điều kiện mới, tiếp tục khẳng định: chiến tranh nhân dân phát triển vẫn là phương thức hữu hiệu để đối phó với chiến tranh công nghệ cao, chiến tranh kiểu mới; trang bị vũ khí hiện đại là quan trọng, không thể thiếu, nhưng vấn đề trọng yếu và cốt tử vẫn là nhân tố con người. Cần bồi dưỡng, đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang có bản lĩnh chính trị, trình độ nắm bắt, khai thác, làm chủ khoa học, công nghệ, vũ khí, trang bị hiện đại. Chú trọng hiện đại hóa, trí tuệ hóa nguồn nhân lực của lực lượng vũ trang. Phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam trong điều kiện mới trên cơ sở tiếp thu, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ và có những giải pháp hữu hiệu phòng, chống chiến tranh công nghệ cao, chiến tranh kiểu mới. Hiện nay, mối đe dọa an ninh phi truyền thống đang trở thành vấn đề toàn cầu, cả thế giới cùng chung tay để phối hợp giải quyết. Trong bối cảnh đó, chúng ta cần nghiên cứu những mức độ, khả năng và tình huống diễn biến của các loại hình an ninh phi truyền thống đối với nước ta để có sự chuẩn bị chu đáo và có các giải pháp hữu hiệu ứng phó. Đồng thời, tích cực chủ động tham gia các định chế và giải pháp toàn cầu để giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống một cách hiệu quả.

Thứ năm, xác định rõ đối tác, đối tượng, đồng minh. Để xác định rõ đối tác, đối tượng, đồng minh, trước hết phải thực hiện nghiêm các nguyên tắc: tuân thủ sự lãnh đạo của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước, phục vụ lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc; nâng cao cảnh giác, bảo đảm bí mật quốc gia. Việc xác định đối tượng không nêu rõ đích danh mà thông qua mô tả nội dung, hành động để nhận thức cho đúng. Các đối tượng cơ bản gồm: (1). Thế lực hiếu chiến, đồng minh và tay sai của thế lực này là đối tượng cơ bản, lâu dài. (2). Thế lực nước lớn có tham vọng, hành động xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, lợi ích quốc gia của Việt Nam và chư hầu là đối tượng trực tiếp, nguy hiểm, lâu dài. (3). Tổ chức phản động trong và ngoài nước, lực lượng cơ hội, suy thoái chính trị, đạo đức sẵn sàng câu kết, tiếp tay cho thế lực bên ngoài, là đối tượng nguy hiểm. Trên cơ sở như vậy phải vừa xác định một cách khách quan, toàn diện về đối tượng bên ngoài trong từng tình huống, vừa chỉ rõ sự nguy hiểm của đối tượng bên trong. Phải cảnh giác, nắm rõ tình hình, kịp thời phát hiện âm mưu, hành động của đối tượng; vừa hợp tác, vừa đấu tranh, tranh thủ mặt đồng thuận, hạn chế mặt đối lập, thêm bạn, bớt thù, tránh bị cô lập, kịp thời ngăn chặn và phá vỡ những liên minh gây chiến tranh xâm lược đất nước.

Về vấn đề đồng minh, liên minh. Cần xác định rõ, trong sự cạnh tranh chiến lược quyết liệt giữa các nước lớn, nếu dựa vào nước lớn này làm đồng minh, liên minh thì sẽ trở thành đối tượng chiến lược, đối đầu với nước lớn khác. Vì vậy, chúng ta kiên định chính sách “bốn không”, thêm bạn, bớt thù; hài hòa quan hệ với các nước lớn, thiết lập, củng cố quan hệ với tất cả các nước, nhất là các đối tác chiến lược, hội nhập quốc tế sâu rộng, gia tăng sự đan xen lợi ích chung với nhiều nước, tạo sự ủng hộ giúp đỡ quốc tế; ngăn ngừa nguy cơ và đối phó thắng lợi với mọi hình thức chiến tranh xâm lược.

Thứ sáu, bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Phải xác định rõ nguyên tắc: Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, thường xuyên trực tiếp là của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước; sự tham gia của toàn dân, trong đó, lực lượng vũ trang đóng vai trò then chốt. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao về tư tưởng, hành động của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và của cả hệ thống chính trị trong việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

Xây dựng Quân chủng Hải quân, Quân chủng Phòng không - không quân, lực lượng Cảnh sát biển,... chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, công tác của lực lượng vũ trang đủ sức bảo vệ vững chắc vùng trời, biển, đảo của Tổ quốc. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân trên biển; đẩy mạnh xây dựng lực lượng dân quân tự vệ biển; củng cố xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc trên các đảo và trên đất liền. Nâng cao trình độ nghiệp vụ, khả năng nghiên cứu, nắm và dự báo sớm, sát, đúng tình hình để chủ động tham mưu xử lý các tình huống kịp thời, hiệu quả. Tăng cường hợp tác quốc tế, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại quốc phòng, an ninh trong bảo vệ chủ quyền, biển, đảo.

GS, TS. Vũ Văn Hiền
Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương
Theo Tạp chí Quốc phòng toàn dân
Phương Thành (st)

_____________________  

1. ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 81.
2. ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 148.
3. ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 149.

Bài viết khác: