Quan điểm bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” thể hiện tư duy, tầm nhìn chiến lược, tính chủ động, sáng tạo của Đảng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan điểm này cần tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện hiệu quả trong thực tiễn, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” của Đảng là sự kế thừa bài học, kế sách “giữ nước từ khi nước chưa nguy” của tổ tiên trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Nhờ sớm nêu cao tinh thần chủ động giữ nước, mà chúng ta luôn giữ vững non sông, bờ cõi, khẳng định nền độc lập, tự chủ, bảo toàn chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia. Quan điểm bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” là tổng thể các tư tưởng, hành động của Đảng, Nhà nước và Nhân dân diễn ra từ trước, nhằm sớm phát hiện, ngăn chặn, đẩy lùi, triệt tiêu những âm mưu, hành động chống phá chế độ, xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ, lợi ích quốc gia - dân tộc, không để Tổ quốc bị động, bất ngờ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tư duy chiến lược về bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” của Đảng gồm nhiều nội dung, trong đó tập trung vào một số vấn đề cơ bản sau:
1. Chủ động nắm, nghiên cứu, phân tích, dự báo chính xác tình hình thế giới, khu vực, trong nước
Đây là nội dung quan trọng hàng đầu, cơ sở khoa học để Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối, chính sách quốc phòng, an ninh, đối ngoại, bảo vệ Tổ quốc. Trước bối cảnh thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây bất ổn, khó dự báo, thì việc “nâng cao năng lực xử lý thông tin, dự báo, tham mưu chiến lược, chủ động nắm chắc tình hình, kịp thời phát hiện, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động…”1 là hết sức cần thiết, “góp phần giữ vững ổn định chính trị, xã hội, tạo môi trường, hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và mở rộng quan hệ đối ngoại của đất nước”2. Quan điểm này, không chỉ thể hiện trí tuệ, tầm nhìn chiến lược, sắc sảo của Đảng trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, mà còn là một trong những đột phá tư duy, nhận thức về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế diễn ra sâu rộng. Theo đó, các cơ quan tham mưu chiến lược Bộ Quốc phòng phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương, lực lượng liên quan thực hiện đồng bộ các biện pháp nâng cao chất lượng nắm, nghiên cứu, dự báo tình hình chiến lược; tập trung vào những động thái, chuyển dịch các chiến lược an ninh, quốc phòng, đối ngoại,… của các nước lớn, các nước láng giềng; kịp thời phát hiện, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi và làm thất bại mọi mưu đồ chống phá của các thế lực thù địch cả bên trong và bên ngoài biên giới, lãnh thổ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; tích cực tham gia bảo vệ nền hòa bình khu vực và thế giới.
2. Xây dựng tiềm lực, lực lượng, thế trận quốc phòng vững mạnh
Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng Quân đội nhân dân… cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, tạo tiền đề vững chắc phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân… cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”3. Tập trung “xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, chất lượng ngày càng cao; xây dựng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp có số lượng phù hợp, coi trọng lực lượng dân quân tự vệ biển và dân quân tự vệ các địa bàn trọng điểm”4. Đồng thời, “tổ chức, triển khai đồng bộ, thống nhất việc xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội gắn với xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững mạnh”5.
Thực hiện tốt nội dung này, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, cả hệ thống chính trị cần tiếp tục xây dựng các tiềm lực: chính trị - tinh thần, kinh tế, quân sự, khoa học - công nghệ và đối ngoại vững mạnh, phục vụ đầy đủ, kịp thời nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời bình và sẵn sàng huy động cho chiến tranh. Kết hợp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với tăng cường quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại; xây dựng hệ thống hạ tầng kinh tế, quốc phòng, kỹ thuật,… vững chắc, nâng cao hiệu quả hoạt động các khu kinh tế - quốc phòng, tập trung vào địa bàn chiến lược, trọng điểm về quốc phòng, an ninh, biên giới, biển, đảo. Tiếp tục xây dựng, nâng cao sức mạnh lực lượng vũ trang ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ), bảo đảm cho các lực lượng này có chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu cao, phát huy vai trò nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, gắn với nền an ninh nhân dân; phối hợp chặt chẽ với các thành phần, lực lượng trong khu vực phòng thủ bảo vệ vững chắc địa bàn, chủ quyền biên giới trên bộ, trên không, trên biển, bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở cơ sở. Thường xuyên củng cố, xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trên từng địa bàn và cả nước.
3. Phát huy sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”
Tư duy về phát huy sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc của Đảng được Đại hội XIII nhấn mạnh: “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc…”6. Đây là nét đặc trưng trong truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc, là quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta, nhằm động viên, quy tụ, phát huy cao độ sức mạnh của các nhân tố chính trị - tinh thần, tư tưởng, văn hóa, quốc phòng, an ninh, kinh tế, đối ngoại; sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân và cả hệ thống chính trị, tạo sức mạnh tổng hợp to lớn để bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống. Đó còn là sự kết hợp chặt chẽ sức mạnh bên trong với sức mạnh bên ngoài, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Phát huy vai trò của các cơ quan báo chí, truyền thông tuyên truyền sâu rộng, liên tục để nhân dân thế giới và kiều bào Việt Nam ở nước ngoài hiểu rõ, hiểu đúng, hiểu đủ về Việt Nam, từ đó ủng hộ, chia sẻ, giúp đỡ, tạo sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc.
4. Phương thức bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”
Đảng ta xác định: “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, v.v. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”7. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc phải được chủ động tiến hành, lấy phòng ngừa, ngăn chặn nguy cơ chiến tranh, xung đột là chính; phương thức bảo vệ Tổ quốc là kiên quyết, kiên trì đấu tranh, không chỉ ngăn chặn chiến tranh xâm lược từ bên ngoài mà phải: “phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch”8, không để hình thành các tổ chức chính trị đối lập trong nước, mục tiêu cao nhất là phải bảo vệ vững chắc chủ quyền, lãnh thổ của Tổ quốc, giữ cho được môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Trước hết, cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị lực lượng vũ trang và cấp ủy, chính quyền từ Trung ương đến địa phương đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; tập trung hoàn thiện, phát huy hiệu quả hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về quốc phòng, an ninh. Tiếp tục triển khai thực hiện toàn diện, đồng bộ Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự, Chiến lược Bảo vệ an ninh quốc gia, Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, Chiến lược An ninh mạng quốc gia và các chiến lược quốc phòng, an ninh chuyên ngành. Chủ động nghiên cứu, xây dựng chương trình, kế hoạch, biên soạn hệ thống tài liệu tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện nội dung các chiến lược và các văn kiện Đại hội XIII của Đảng, bảo đảm phù hợp với từng cấp, từng ngành, từng địa phương, từng đối tượng, quyết tâm đưa nghị quyết vào thực tiễn.
5. Đẩy mạnh công tác đối ngoại, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phát huy tối đa nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước”9. Lần đầu tiên, Đảng ta cũng nêu rất rõ đối ngoại gồm ba trụ cột: Đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Nhân dân. Đây là ba kênh đối ngoại Trung ương - lực lượng nòng cốt đấu tranh ngoại giao, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế cả về vật chất, tinh thần trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc; nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế trong công cuộc xây dựng, đổi mới đất nước.
Đối ngoại quốc phòng là bộ phận quan trọng của đối ngoại quốc gia, Đảng ta xác định: Lấy đối ngoại quốc phòng làm công cụ quan trọng giải quyết tranh chấp, bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc; tạo lợi thế chính trị trong mọi biến động của tình hình, đóng góp cho hòa bình, ổn định của khu vực. Mục tiêu của đối ngoại quốc phòng là, thiết lập và phát triển quan hệ về quốc phòng với tất cả các nước trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, nhằm huy động các nguồn lực bên ngoài vào củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng lực lượng vũ trang, giữ vững môi trường hòa bình, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng, đổi mới đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Điểm mới về nhiệm vụ của đối ngoại quốc phòng của Đại hội XIII là, “đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt là đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác quan trọng khác, tạo thế đan xen lợi ích và tăng độ tin cậy. Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh theo tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc”10.
Thực hiện tốt các nội dung này chính là hiện thực hóa mục tiêu bảo vệ vững chắc Tổ quốc mà không phải tiến hành chiến tranh, thực hiện tư tưởng: quốc phòng tối ưu là quốc phòng không phải tiến hành chiến tranh của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta.
Thiếu tướng, TS. Lê Văn Hải, Học viện Quốc phòng
Theo Tạp chí Quốc phòng toàn dân
Tâm Trang (st)
__________________
1. ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập II, Nxb CTQG, H. 2021, tr. 152.
2. Sđd, tr. 153.
3. ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập II, Nxb CTQG, H. 2021, tr. 336.
4. Sđd, tr. 151.
5. Sđd, tr. 150.
6. Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng - Tài liệu học tập các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb CTQG, H. 2021, tr. 61.
7. Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng - Tài liệu học tập các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb CTQG, H. 2021, tr. 62.
8. ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập II, Nxb CTQG, H. 2021, tr. 331.
9. Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng - Tài liệu học tập các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb CTQG, H. 2021, tr. 65.
10. Sđd, tr. 66.