Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định trong những năm tới, tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải đoàn kết một lòng để củng cố, tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa là nhân tố quyết định thành công của cách mạng Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến trọn cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng, giành độc lập, tự do cho đất nước và hạnh phúc của Nhân dân. Với Người, Nhân dân chính là gốc của nước nhà và đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho Nhân dân là khát vọng, là sự nghiệp vĩ đại nhất của mọi thời đại. Trên tinh thần kế thừa, phát triển tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại, Nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã ở một tầm cao mới: “Trong bầu trời không gì quý bằng Nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của Nhân dân”1 và Nhân dân chính là tiền đề hình thành nên tính dân tộc, nghĩa đồng bào trong con người Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong tư tưởng của Người, dân là “gốc” của nước bởi “lực lượng của dân rất to”, rất đông, rất mạnh. Dân là “gốc” của nước bởi “dân rất tốt”, trong mỗi người dân đều có phẩm chất cao quý nhất là lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Dân là “gốc” của nước còn bởi “dân rất thông minh”, như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”2. Chính của cải, sức mạnh, đạo đức, tài năng, lòng tin của Nhân dân đã tạo nên “cái gốc” của nước.
Nhận thức sâu sắc về cái “gốc” đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết: “Nước lấy dân làm gốc… Gốc có vững, cây mới bền/Xây lầu thắng lợi trên nền Nhân dân”3. Như vậy, lòng dân chính là “vận nước”. Từ chỗ coi Nhân dân là lực lượng vĩ đại hơn hết, không ai chiến thắng được lực lượng đó, “Dân làm gốc” - Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn nhận mối quan hệ giữa dân với Đảng là mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời. Dân là gốc của nước, Đảng là Đảng của giai cấp lao động, cũng là Đảng của toàn dân, nhiệm vụ của Đảng là phụng sự Tổ quốc và phục vụ Nhân dân.
Kế thừa và phát triển tư tưởng dân là gốc của nước, trọng dân, gần dân, thương dân nên trải qua 91 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng ta luôn gắn bó máu thịt với Nhân dân, dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng. Nhấn mạnh đến tầm quan trọng trong mối quan hệ giữa Nhân dân với Đảng, trong Báo cáo về các văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã nêu 05 bài học kinh nghiệm từ thực tiễn công cuộc đổi mới, trong đó bài học thứ hai chỉ rõ: “Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân, dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”4.
Trong các định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định vai trò, vị trí vô cùng quan trọng của Nhân dân trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, như: tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện; tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò tự quản của Nhân dân; tiếp tục nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ.
Bằng những chủ trương rõ ràng và sâu sắc, có thể khẳng định dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng, dựa vào Nhân dân để Đảng lãnh đạo, chỉ đạo đã trở thành nguyên tắc quan trọng, tất yếu mà các cấp ủy, tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần để cho sự nghiệp xây dựng và phát triển bền vững đất nước thật sự là của dân, do dân và vì dân.
Đặt lợi ích của Nhân dân lên trên hết là nhân tố quyết định mọi thành công trong công cuộc đổi mới đất nước của Đảng, Nhà nước ta
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trên nền tảng lấy dân làm gốc chính là đảng viên phải dựa vào Nhân dân mà xây dựng Đảng, tin tưởng vào lực lượng của Nhân dân, học hỏi Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân cùng Nhân dân kết thành một khối. Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước phải lấy người dân làm trung tâm, phải đặt lợi ích của Nhân dân lên trên hết, trước hết; quá trình thực hiện phải liên hệ chặt chẽ với Nhân dân; việc gì cũng bàn với Nhân dân và giải thích cho Nhân dân hiểu rõ; có khuyết điểm thì thật thà nhận lỗi, phê bình và biết sửa sai trước Nhân dân; sẵn sàng học hỏi Nhân dân; tự mình phải gương mẫu trong cần, kiệm, liêm, chính để Nhân dân noi theo.
Thấm nhuần tư tưởng của Người, Đảng ta đã rút ra bài học sâu sắc về sức mạnh của Nhân dân: “Sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Chính Nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của Nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với Nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời Nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước”5.
Phát biểu tại Hội nghị toàn quốc triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và các văn bản của Trung ương về công tác dân vận, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: tin ở dân, chăm lo cho dân, lấy dân làm gốc là một bài học lớn được rút ra từ chiều sâu lịch sử đất nước ta. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Bác Hồ và Đảng ta luôn nhận thức sâu sắc vai trò to lớn của Nhân dân, ý nghĩa cực kỳ quan trọng của công tác dân vận, thường xuyên chăm lo xây dựng và củng cố mối liên hệ chặt chẽ với Nhân dân. Chính nhờ thế mà mặc dù với số lượng không đông, Đảng ta vẫn có đủ sức mạnh lãnh đạo cách mạng vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù, dù đó là kẻ thù nguy hiểm và hung bạo nhất.
Mục tiêu tổng quát của Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã xác định để giữ vững mối quan hệ máu thịt và trách nhiệm giữa Đảng với Nhân dân, giữa Nhân dân với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước thì Đảng phải nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu. Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; đồng thời khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại.
Trong thực hiện nhiệm vụ, muốn để dân nghe, dân tin, dân làm theo thì các cấp ủy đảng và hệ thống chính trị phải hiểu về quyền hành, lực lượng, trí tuệ của Nhân dân. Tăng cường phối hợp, thực hiện tốt công tác dân vận của cả hệ thống chính trị; phối hợp giữa chính quyền, các cơ quan, tổ chức với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội từ Trung ương đến địa phương. Phải cụ thể hóa phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” vào công tác lãnh đạo, chỉ đạo. Thực hiện tốt cơ chế liên quan đến việc thực hiện các quy định về dân chủ ở cơ sở; công tác tiếp dân, đối thoại với dân, giải quyết những bức xúc, kiến nghị chính đáng, hợp pháp liên quan đến đời sống của Nhân dân.
Đặc biệt, cần chú trọng cơ chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; cơ chế Nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ, tổ chức và nghị quyết của Đảng. Việc tiếp xúc cử tri, nắm bắt và giải quyết những bức xúc, tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân của các đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
Xây dựng đội ngũ cán bộ vừa “hồng” vừa “chuyên”, thật sự tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, hỏi dân, nắm vững dân tình, dân tâm, dân ý, có trách nhiệm với dân; quan tâm dân quyền, dân sinh, dân trí, dân chủ vừa là lý luận nhưng vừa là đòi hỏi của thực tiễn trong việc dựa vào Nhân dân để xây dựng và chỉnh đốn Đảng, để Đảng thực sự vì lợi ích của dân mà hành động.
Thực tiễn đã chứng minh, khi đứng trước những khó khăn, thách thức, khi phải ứng phó với thiên tai, dịch bệnh, cả hệ thống chính trị đã lấy người dân làm trung tâm để đề ra những chủ trương, chính sách phù hợp, đúng đắn, khả thi với thực tế tình hình và thực lực của đất nước với tinh thần: “Chấp nhận hy sinh một số lợi ích kinh tế trước mắt để bảo vệ tốt nhất sức khoẻ, tính mạng của người dân”; “Chống dịch như chống giặc” là “đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối tượng”... Nhờ vậy, đã giảm thiểu tối đa thiệt hại do dịch bệnh, thiên tai gây ra, tinh thần yêu nước, đoàn kết, gắn bó với Nhân dân được nâng cao. Nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế và hãng thông tấn báo chí có uy tín trên thế giới đã ghi nhận, đánh giá cao Việt Nam là đất nước tuy còn nhiều khó khăn về kinh tế, nhưng đã trở thành một “hình mẫu” về cách thức kiểm soát dịch bệnh đạt hiệu quả cao nhất với mức chi phí tối thiểu, sự đồng lòng của người dân với Chính phủ là một “tấm gương” trong phòng, chống dịch bệnh và thể hiện trách nhiệm, uy tín cao trong hợp tác quốc tế, khu vực về phòng, chống dịch.
Bên cạnh đó, để đảm bảo đời sống của người dân trước diễn biến khó lường của tình hình dịch bệnh và tác động xã hội, nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp đúng đắn của Đảng, Nhà nước đã được ban hành kịp thời và tổ chức thực hiện tốt, vừa duy trì ở mức có thể các hoạt động sản xuất, tạo việc làm, thu nhập cho người lao động, hỗ trợ người dân và các doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, vừa bảo vệ sức khỏe của người dân, khống chế, kiểm soát và đẩy lùi dịch bệnh.
Những bài học thực tiễn sâu sắc đó cho thấy càng phải củng cố vững chắc lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với Nhân dân. Sức mạnh của Đảng là sự gắn bó mật thiết với Nhân dân, được lòng dân, “đi dân nhớ, ở dân thương”. Muốn được lòng dân thì toàn bộ hoạt động của Đảng cũng như mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân. Đảng, Nhà nước không chỉ tôn trọng mà phải tạo cơ chế để Nhân dân phát huy đầy đủ, có hiệu quả quyền làm chủ của mình.
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, thông qua đó tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động trong Đảng, hệ thống chính trị và nhân dân, đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thành công việc tự giác, thường xuyên của cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức chính trị - xã hội các cấp, của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, trước hết là của người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên. Và mới đây, Tổng Bí thư Nguyên Phú Trọng có bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” đã khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam; Đảng ra đời, tồn tại và phát triển là vì lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Khi Đảng cầm quyền, lãnh đạo cả dân tộc, được toàn dân thừa nhận là đội tiên phong lãnh đạo của mình và do đó Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Nói như vậy không có nghĩa là hạ thấp bản chất giai cấp của Đảng, mà là thể hiện sự nhận thức bản chất giai cấp của Đảng một cách sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, vì giai cấp công nhân là giai cấp có lợi ích thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động và toàn dân tộc. Đảng ta kiên trì lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên; thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ. Ý thức được nguy cơ đối với đảng cầm quyền là tham nhũng, quan liêu, thoái hóa v.v..., nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường, Đảng Cộng sản Việt Nam đặt ra yêu cầu phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, thoái hóa v.v... trong nội bộ Đảng và trong toàn bộ hệ thống chính trị”. Quán triệt tinh thần nêu trên, Đảng phải luôn đổi mới, tự chỉnh đốn để vững mạnh về tư tưởng, tổ chức và sức chiến đấu, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, xử lý nghiêm những tiêu cực, nhận ra sai sót kịp thời và biết điều chỉnh, sửa sai để ngày càng củng cố niềm tin của Nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng; tập trung giải quyết những bức xúc, nguyện vọng chính đáng liên quan thiết thực đến lợi ích, đời sống, việc làm của người dân.. Chỉ có như vậy, thì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhân dân ta đã lựa chọn và kiên định mới thành công và thực sự có ý nghĩa./.
TS. Vũ Chiến Thắng, Thứ trưởng Bộ Nội vụ
Theo Tạp chí Tổ chức nhà nước
Tâm Trang (st)
----------------------------
Ghi chú:
1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb CTQG-ST H.2011, tr.453.
2, 3. Sđd, tập 5, tr.335, tr.501-502.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, tập I, Nxb CTQG-ST, H.2021, tr.28.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, H.1991, tr.5.