Đã đến ngày mồng 2-9. Tôi được Trung ương triệu tập lên dự Hội nghị Bí thư và Chủ tịch các tỉnh miền Bắc từ hôm trước. Chiều hôm sau cùng các đại biểu đi dự mít tinh ở Quảng trường Ba Đình để nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập và giới thiệu danh sách Chính phủ lâm thời. Sau đấy lại cùng về Bắc Bộ Phủ, nay là Nhà khách Chính phủ ở phố Ngô Quyền, để họp với đồng chí Trường Chinh. Đang họp thì Bác vào (từ lúc ở Ba Đình về Bác vẫn ngồi nghỉ trên chiếc ghế bành mây ở hành lang phía sau nhà, nhìn ra Hồ Gươm). Tôi nhìn Bác không chớp mắt. Trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ Đông Dương, đã có lần ở Báo “Tin tức” của Đảng, khi biên tập hồi ký “Ba năm ở Nga Xô-viết” của đồng chí Trần Đình Long để đăng từng kỳ trên Báo, trong đoạn nói về việc gặp Bác ở Đức, tôi có hư cấu thêm một câu để tả chân dung Bác: “Dưới vầng trán cao ánh lên một cặp mắt sáng quắc và nhân từ”. Lúc này ngồi ngắm Bác tôi lại nhớ đến câu ấy, ngạc nhiên thấy mình tưởng tượng rất đúng. Chỉ có cách ăn mặc và cách nói giản dị của Bác thì không tưởng tượng được. Tôi liếc sang cuốn sổ tay nhỏ để trước mặt Bác thấy hai chữ “Phân công” ghi bằng chữ Hán. Tôi nghĩ bụng chắc Bác giỏi chữ Hán lắm… Bác ghi thêm mấy chữ nữa, rồi không cần mào đầu Bác nói ngay:
- Bây giờ cách mạng đã thành công, nhưng khó khăn còn nhiều. Đừng có đồng chí nào nghĩ rằng đã đến lúc cần được nghỉ ngơi, hưởng thụ. Các đồng chí đều đã hoạt động bí mật, đã kinh qua nhiều gian khổ, bây giờ ra ánh sáng nếu không cẩn thận thì sẽ bị lóa mắt về những vật chất. Ở một vài nơi nhân dân đã kêu: Các ông ủy ban đi đâu một bước là ô tô. Ông chủ tịch đi ô tô, ông ủy viên đi ô tô, rồi cả bà ủy viên, cô cậu ủy viên cũng đi ô tô. Làm cách mạng là để phục vụ nhân dân chứ không phải để thăng quan phát tài, chỉ có người cách mạng, chứ không có quan cách mạng. Nếu không giữ mình liêm chính thì sẽ tham ô, thụt két, rồi bị kỷ luật…
Lực lượng vũ trang cách mạng trong Ngày Quốc khánh 2-9-1945.
( Ảnh tư liệu)
Bác chỉ nói ngắn gọn có thế thôi, nhưng mọi người đều cảm thấy như Bác đã nhìn thấu ruột gan mình. Cái gì chứ cái dùng ô tô bừa bãi thì hầu như không nơi nào không có. Không ngờ Bác bận trăm công ngàn việc trong buổi đầu dựng nước, mà Bác vẫn không bỏ sót một việc nhỏ nào. Một điều nữa làm tôi ngạc nhiên là đã mấy chục năm bôn ba ở nước ngoài, mà lời nói và cách nói của Bác không hề bị pha tạp một tý gì của nước ngoài, vẫn hoàn toàn Việt Nam.
*
* *
Một hôm, vào gần giữa tháng chín, tôi nhận được điện của Bộ Nội vụ ra lệnh tha cho một viên quan lại mà chúng tôi bắt giam về tội chống Cộng. Viên quan này là Nguyễn Văn Ích, quê ở Hưng Yên, làm Tuần phủ Tuyên Quang. Khi còn là một tên Thống phán tòa sứ, ông ta cũng có viết văn. Cuốn tiểu thuyết “Kim Anh lệ sử” của ông ta đã gây được tiếng vang rộng rãi trong giới trí thức và quan lại hồi ấy, vì nó đề cập đến một vấn đề thời sự: Một viên Tri huyện hiến vợ lẽ của mình là Kim Anh cho tên Công sứ Tây để được thăng quan tiến chức. Nhưng đến năm 1931, khi phong trào cộng sản lên cao thì ông lại dịch cuốn “Mặt nạ cộng sản” để nói xấu cộng sản và xuyên tạc Liên Xô. Cuốn sách đã được bọn Thống trị Pháp cho phát không về các làng và ông ta thì được thăng Tri châu, rồi Tuần phủ. Cách mạng lên, ông “từ quan” về ngôi biệt thự lộng lẫy bên hồ Bán nguyệt.
Việc bắt viên Tuần phủ Ích cả tỉnh đều biết, bây giờ phải tha cho ông ta thì biết ăn nói thế nào với bà con Hưng Yên? Sau khi trao đổi với các đồng chí trong Tỉnh ủy và Ủy ban tỉnh, tôi phóng xe lên Bắc Bộ Phủ xin gặp anh Võ Nguyên Giáp lúc ấy là Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Anh Giáp cho anh Hoàng Hữu Nam (Phan Bôi) xuống tiếp. Nghe tôi trình bày sự việc xong, anh Bôi nói:
- Việc này nằm trong chính sách chung của Đảng với những người có sai lầm cũ, không thể thay đổi được. Đến cả Vi Văn Định mà “ông cụ” cũng sắp cho mời về làm việc kia.
Tôi đề nghị anh Bôi báo cáo với Hồ Chủ tịch xét lại việc này cho, chứ tha viên Tuần phủ ấy bây giờ thì chúng tôi sẽ mất hết uy tín với nhân dân trong tỉnh. Anh Bôi lắc đầu:
- Không được đâu! “Ông cụ” rigide (cứng rắn) về nguyên tắc lắm.
Tôi vẫn nằn nì. Cuối cùng anh Bôi bảo tôi hãy chờ một lát, anh phải lên làm việc với Bác, để anh thử xin ý kiến Bác xem (anh vẫn gọi Bác là “Ông cụ”). Một lúc sau anh xuống gọi tôi lên gặp Bác. Bác chỉ ghế cho tôi ngồi rồi hỏi ngay:
- Đồng chí bắt người ta có lợi gì không?
Lần đầu tiên được gặp riêng Bác, tôi rất lúng túng trong việc xưng hô. Tôi ấp úng:
- Thưa… Thưa Chủ tịch, vì nó đã viết sách chửi cộng sản.
- Biết rồi. Nhưng việc đã lâu ngày, bắt người ta bây giờ có lợi gì không?
- Thưa Chủ tịch, để nó phải sợ…
Tôi biết lỡ lời, định chữa lại, thì Bác đã nói tiếp:
- Thế đồng chí có biết làm cho người ta sợ hơn, hay làm cho người ta yêu hơn? Đồng chí có học chữ nho không?
- Thưa, có học ít thôi ạ.
- Thế đồng chí có nhớ câu các cụ thường nói “xử nhân úy bất như xử nhân ái” không? Đồng chí nên nhớ rằng không sợ người không theo mình, mà chỉ sợ lòng mình không rộng. Thôi, đồng chí về bàn với anh em giải thích cho người ta hiểu chính sách khoan hồng của Chính phủ, rồi tha cho người ta…
*
* *
Không sợ người không theo mình, mà chỉ sợ lòng mình không rộng. Đã hơn 60 năm rồi mà đến nay tôi vẫn còn nhớ như in lời dạy của Bác. Tôi cũng không bao giờ quên được những lời khuyên răn của Bác hôm được gặp Bác ở Bắc Bộ Phủ, nhất là câu: “Chỉ có người cách mạng, chứ không có quan cách mạng”.
Nhà văn Học Phi
Theo http://www.qdnd.vn
Thu Hiền (st)