Bốn mươi bốn năm trước đây, trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta một bản Di chúc lịch sử. Đó là những lời căn dặn cuối cùng và cũng là tình cảm thiêng liêng, niềm tin vô bờ bến của Người đối với tiền đồ và tương lai tươi sáng của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, Người đã để lại những lời di huấn quý báu đối với Đảng ta, mong muốn Đảng luôn được củng cố, ngày càng trưởng thành, trong sạch vững mạnh, xứng đáng là một Đảng vừa đạo đức, vừa văn minh.
Xây dựng Đảng luôn phải là công tác “trước hết”, hàng đầu
Trong phần mở đầu bản Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Trước hết nói về Đảng, nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”(*). Thực tiễn suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi và phong phú của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho Đảng và chăm lo hoàn thiện các công việc lãnh đạo của Đảng ta đối với xã hội trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào.
Ngay từ năm 1927, trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”, Người đã đặt ra câu hỏi: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì?”, và Người đưa ra lời giải đáp đó là: “Trước hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành công cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy” (1). Người khẳng định: Đảng phải lấy chủ nghĩa Lê-nin làm cốt, bởi vì đó là “chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất”. Được chủ nghĩa Mác - Lê-nin soi sáng, Người đã dày công xây dựng, giáo dục, rèn luyện Đảng ta với tâm nguyện cao cả là Đảng phải “trở thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc” (2). Tại Hội nghị cán bộ của Đảng ta ngày 18-1-1949, sau khi nêu lên một số vấn đề cần làm ngay trên các lĩnh vực quân sự, kinh tế, chấn chỉnh bộ máy chính quyền các cấp và chỉnh đốn các đoàn thể quần chúng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập một vấn đề có tính quyết định của công tác xây dựng Đảng: “Muốn làm được những việc trên, trước hết phải chỉnh đốn nội bộ Đảng. Phải nêu ra những việc chính, nắm lấy nó mà làm. Đảng ví như cái máy phát điện, các công việc trên ví như những ngọn đèn, máy mạnh thì đèn sáng” (3).
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là một nhiệm vụ hết sức cần kíp, là vấn đề “Trước hết” đối với việc xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Theo tư tưởng của Người, phải coi trọng trước hết đến công tác xây dựng Đảng, bởi đó là công tác tạo ra “máy phát điện” trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng to lớn của Đảng ta. Vì vậy, vào thời điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bản Di chúc, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam đang ở trong giai đoạn rất gay go, quyết liệt; song Người vẫn luôn giữ vững niềm tin tuyệt đối vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng do Đảng ta lãnh đạo. Trong Di chúc, Người căn dặn toàn Đảng ta những công việc phải làm khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giành được thắng lợi hoàn toàn, giang sơn thu về một mối, Tổ quốc thống nhất, thì một trong những nhiệm vụ trọng yếu của Đảng phải tiến hành là đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Công việc trên đây là rất to lớn, nặng nề và phức tạp, mà cũng là rất vẻ vang. Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt hơn”. Người còn nhấn mạnh: “Theo ý tôi, việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được việc như vậy, thì dù công việc lớn mấy, khó khăn đến mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”(4).
Trong bản Di chúc, Người đề cập vấn đề “Trước hết nói về Đảng” để nói đến vấn đề tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng ta. Người căn dặn: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”(*). Người nêu tới bốn lần cụm từ “Đoàn kết”. Trước khi viết đoạn kết bản Di chúc bất hủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã di huấn: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”(*).
Như vậy, ở đâu và trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào của cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn trăn trở, quan tâm đến nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam là Đảng Cộng sản Việt Nam. Người nêu vấn đề “Trước hết nói về Đảng” và đặt lên hàng đầu cho nhiệm vụ “chỉnh đốn lại Đảng”; điều đó không có nghĩa là Đảng ta đã phạm phải những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng nào, mà ở chỗ tình hình mới, điều kiện mới của cách mạng đòi hỏi Đảng phải không ngừng nâng cao chất lượng, năng lực lãnh đạo, trình độ trí tuệ của Đảng lên tầm cao mới, để Đảng đủ sức đảm đương vai trò lãnh đạo cách mạng trong giai đoạn mới.
Thực hiện di huấn của Người trong giai đoạn cách mạng hiện nay
Nhìn lại hơn bốn mươi năm toàn Đảng, toàn dân và toàn quân thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã lãnh đạo đất nước vượt qua những chặng đường đầy sóng gió; phải đương đầu với sự đan xen khốc liệt giữa vận hội và thách thức, giữa thời cơ và nguy cơ để lập nên nhiều kỳ tích trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao, quốc phòng, an ninh,... được nhân dân trong và ngoài nước, cùng đông đảo bạn bè trên khắp thế giới yêu mến, tin cậy, cảm phục.
Tuy nhiên, trong những năm qua, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, còn có những lời Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn trong bản Di chúc về vấn đề xây dựng Đảng, đến nay chưa được thực hiện thường xuyên và trọn vẹn, thậm chí còn gây bức xúc trong dư luận xã hội. Nổi lên đó là “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp,...”; việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” chưa thực sự đi vào chiều sâu, ở một số nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao, làm theo chưa đạt yêu cầu”; “Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tội, chạy bằng cấp, huân chương chưa được khắc phục”; “Tình trạng thiếu trách nhiệm, cơ hội, suy thoái đạo đức, lối sống vẫn diễn ra khá phổ biến trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Kỷ luật, kỷ cương ở nhiều tổ chức đảng không nghiêm. Sự đoàn kết, nhất trí ở không ít cấp ủy chưa tốt”(5). Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã chỉ rõ: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…”(6). Những hiện tượng đó nếu không được ngăn chặn, đẩy lùi sẽ làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, gây tổn hại nghiêm trọng đến công tác xây dựng Đảng, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước.
Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng trên là có một số tổ chức cơ sở đảng vẫn xảy ra vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, buông lỏng kỷ luật vì những động cơ cá nhân, thực hiện tự phê bình và phê bình một cách hình thức, đại khái, “dĩ hòa vi quý”; chưa chú trọng chăm lo đầy đủ việc giáo dục, rèn luyện, kiểm tra và xử lý nghiêm minh, kịp thời đối với những đảng viên, cán bộ có biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống, như tham nhũng, hối lộ, quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, xa rời quần chúng, sách nhiễu nhân dân, cục bộ địa phương, cơ hội, gây bè, kéo cánh, mang nặng chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng, né tránh, bằng mặt không bằng lòng, phát ngôn tùy tiện, nói không đi đôi với làm, tranh công đổ lỗi...; một bộ phận đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, làm tổn hại đến thanh danh và uy tín của Đảng, của dân tộc.
Những tình trạng trên đã gây nên bức xúc trong dư luận xã hội, trước hết làm xói mòn lòng tin của quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Hệ lụy dẫn đến là vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng bị giảm sút; các nghị quyết, quyết định của cấp ủy đưa ra thường không được thực hiện nghiêm túc và triệt để; không phát huy được sức mạnh của quần chúng nhân dân cả về vật chất, tinh thần và trí tuệ để phục vụ cho nhiệm vụ chung của tập thể, của đất nước. Những biểu hiện tiêu cực đó tạo ra kẽ hở cho các phần tử cơ hội, cho các thế lực thù địch lợi dụng để thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta, hòng thực hiện âm mưu chiến lược “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ chống phá cách mạng nước ta.
Vì vậy, mỗi dịp đọc lại bản Di chúc bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từng đảng viên, cán bộ hơn lúc nào hết cần phải ra sức học tập, suy ngẫm và hành động theo những lời căn dặn của Người: “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”(7). Phải tập trung xây dựng Đảng nhằm làm cho Đảng thật trong sạch, vững mạnh, đoàn kết, thống nhất, có đạo đức, có trí tuệ, có năng lực. Có thể xem đó là những mục tiêu trực tiếp và trước hết của công tác xây dựng Đảng ở thời kỳ mới. Nhưng xây dựng Đảng còn nhằm mục tiêu xa hơn, có tính chất quyết định hơn, tức là làm cho Đảng “phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(*), một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết trong Di chúc.
Đọc lại bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta càng thấm nhuần sâu sắc tư tưởng và lời chỉ huấn quý báu của Người: “Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn” (8). Cho nên, mỗi đảng viên, cán bộ phải luôn luôn suy ngẫm và nỗ lực hành động để góp phần “giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”(*). Phải thực hiện tốt những lời căn dặn và có thể coi là những biện pháp lớn để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh mà Người đã nêu trong Di chúc: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”(*). Đọc lại bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh sau bốn mươi bốn năm, chúng ta càng hiểu rõ hơn ý nghĩa sâu sắc và tầm vóc lớn lao của việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; đồng thời, càng bồi đắp thêm nghị lực và quyết tâm để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng Đảng.
Suy ngẫm về những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi tổ chức đảng và từng đảng viên cần ra sức hành động để góp phần xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch vững mạnh; trước hết cần nỗ lực thực hiện tốt các giải pháp cơ bản, đồng bộ như Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã xác định, trong đó tập trung vào một số nội dung sau:
Thứ nhất, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, quán triệt sâu sắc đến mọi cán bộ, đảng viên về ý nghĩa, tầm chiến lược của Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI.
Hơn một năm qua, trong toàn Đảng ta đã tổ chức quán triệt, học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI một cách kịp thời, nghiêm túc từ Trung ương đến cơ sở. Đây không chỉ là một đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn của Đảng mà còn có ý nghĩa, tầm quan trọng đặc biệt như một đợt “chỉnh huấn”, “chỉnh Đảng” mà Đảng ta đã tiến hành vào các năm 1952, 1961 và 1965. Sau mỗi lần “chỉnh huấn”, “chỉnh Đảng” như vậy, Đảng ta đã khắc phục được những yếu kém, khuyết điểm nổi cộm, uy tín và vị thế của Đảng được nâng cao, đủ sức lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giành được thắng lợi này đến thắng lợi khác. Tuy nhiên, đến nay vẫn còn có những cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cao chưa nhận thức được đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI. Việc tiến hành kiểm điểm tự phê bình và phê bình có những tổ chức đảng còn xuê xoa, nể nang, không vạch rõ những dấu hiệu của sự suy thoái... Vì vậy, để Nghị quyết thực sự đi vào cuộc sống như mong muốn của toàn Đảng, toàn dân, chúng ta phải đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, quán triệt cho cán bộ, đảng viên về ý nghĩa, tầm chiến lược của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI; nêu rõ những thuận lợi, khó khăn, tính chất gay go, quyết liệt, phức tạp trong cuộc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có một bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cao, để mọi người, mọi tổ chức cùng đồng thuận, đồng tâm kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi những mối hiểm họa cho Đảng, cho đất nước, cho chế độ xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, tăng cường mối liên hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Trong hoạt động lãnh đạo và công tác xây dựng Đảng, một trong những nguyên lý quan trọng là Đảng phải thường xuyên củng cố, tăng cường mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Đảng phải luôn dựa vào nhân dân, bởi vì sức mạnh của Đảng nằm trong mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Cho nên, việc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên nếu không dựa chắc vào nhân dân, không được nhân dân đồng tình, ủng hộ sẽ không đem lại kết quả như mong muốn.
Thực tiễn cho thấy, cộng đồng dân cư hiểu khá rõ về đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là những cán bộ chủ trì, chủ chốt các cấp và gia đình họ sinh sống ở địa phương. Vì vậy, cấp ủy, tổ chức đảng ở mỗi cấp phải thường xuyên giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân địa phương nơi có cán bộ, đảng viên của cơ quan, đơn vị mình cư trú; đồng thời làm tốt công tác tuyên truyền, định hướng cho nhân dân hiểu rõ những quan điểm, chủ trương, phương châm, nguyên tắc của Đảng trong cuộc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên; qua đó tạo sự thống nhất, đồng thuận, phát huy sức mạnh nhân dân vào thực hiện quyết tâm chính trị của Đảng trong thực hiện thắng lợi Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI.
Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, luật pháp nhằm ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Hệ thống cơ chế, chính sách của Đảng và luật pháp của Nhà nước là hành lang pháp lý để mỗi cấp ủy, chính quyền, mỗi cán bộ, đảng viên phải nghiêm chỉnh chấp hành. Những hạn chế, bất cập trong cơ chế, chính sách, luật pháp hiện thời sẽ tạo ra các kẽ hở, “khoảng trống pháp lý”, dễ bị một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hóa biến chất lợi dụng để trục lợi cá nhân, tạo “lợi ích nhóm”…
Hiện nay, hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước và của các bộ, ngành, địa phương có nhiều nội dung không còn phù hợp, trong khi tình hình thực tiễn đã có nhiều thay đổi so với trước, đã đặt ra không ít vấn đề mới phải giải quyết. Việc chậm đổi mới, bổ sung, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, luật pháp là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực, tệ nạn xã hội khác. Vì vậy, để ngăn chặn hữu hiệu những căn bệnh của chủ nghĩa cá nhân, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo việc rà soát, nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, luật pháp, tạo cơ sở pháp lý cho cấp ủy, chính quyền các cấp lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành các cơ quan, đơn vị mình chấp hành nghiêm đường lối, cương lĩnh, nghị quyết của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; tạo ra môi trường lành mạnh để mỗi cán bộ, đảng viên tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu và trưởng thành; xây dựng Đảng ta, Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Thứ tư, kiên quyết xử lý nghiêm minh các trường hợp suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Một trong những vấn đề “trọng tâm, xuyên suốt và cấp bách” hiện nay đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là phải tập trung giải quyết dứt điểm, nghiêm túc những vụ việc tiêu cực, tham nhũng nổi cộm; kiên quyết đấu tranh, xử lý các tổ chức đảng vi phạm kỷ luật, những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, không để “con sâu làm rầu nồi canh”. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI chỉ rõ: “Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và nhân dân đối với Đảng”(9). Đó là thể hiện bản lĩnh chính trị của một Đảng cách mạng chân chính, có tinh thần trách nhiệm cao trước nhân dân và dân tộc.
Việc kiên quyết xử lý dứt điểm, nghiêm minh những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật theo Điều lệ Đảng và kiến nghị chính quyền xử lý nghiêm theo những quy định của pháp luật, cho dù họ giữ cương vị lãnh đạo, quản lý ở cấp nào, chẳng những làm trong sạch đội ngũ của Đảng mà còn tạo hiệu ứng tích cực đến đời sống chính trị, tinh thần trong toàn xã hội; đồng thời bảo vệ Đảng trước sự tấn công phá hoại của các thế lực thù địch. Vì vậy, mỗi cấp ủy, tổ chức đảng khi phát hiện có dấu hiệu suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống phải khẩn trương kết luận rõ ràng, kiên quyết xử lý nghiêm minh, triệt để các trường hợp sai phạm tùy theo mức độ; khắc phục tình trạng bao che khuyết điểm, nể nang, né tránh, cục bộ, phe nhóm, đùn đẩy trách nhiệm, xử lý “nội bộ”... Đặc biệt, các cơ quan chức năng của Đảng, Nhà nước cần nhanh chóng đưa những vụ việc tiêu cực, thất thoát, tham nhũng lớn ra xét xử công khai, dứt điểm, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, lấy lại lòng tin của quần chúng nhân dân, trả lại sự trong sạch của các tổ chức đảng, chính quyền và của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, bên cạnh những thuận lợi, thời cơ và vận hội mới, thì đất nước chúng ta cũng đang phải đứng trước những nguy cơ và thách thức mới. Để tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, trước hết toàn Đảng ta cần phải tiếp tục đẩy mạnh học tập và thực hiện đầy đủ những lời căn dặn đầy tâm huyết của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu trong bản Di chúc: “Trước hết nói về Đảng”; và biểu hiện “Trước hết” đó phải bằng nhận thức, bằng hành động cách mạng cụ thể của mỗi tổ chức đảng, mỗi đảng viên trong nỗ lực xây dựng và chỉnh đốn Đảng./.
----------------------------
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 2, tr. 189
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t. 7, tr. 207
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t. 5, tr. 551-552
4. Di cảo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 10-5-1969, Lưu trữ tại Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 173-175
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 22
7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t. 4, tr. 56-57
8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t. 3, tr. 217
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, sđd, tr. 26
(*) Các đoạn trích dẫn trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, công bố ngày 10-5-1969
Đại tá, ThS. Nguyễn Đức Thắng
Viện Khoa học Xã hội Nhân văn quân sự - Bộ Quốc phòng
Tâm Trang (st)