Đã tròn 76 năm kể từ ngày Bác Hồ ra lời kêu gọi Thi đua ái quốc (11-6-1948), song những chỉ dẫn của Người về Thi đua yêu nước vẫn mang đậm ý nghĩa chính trị và tinh thần to lớn, luôn vẹn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, thúc giục tinh thần thi đua yêu nước trong mỗi người dân đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Hình ảnh cổ động tuyên truyền ý nghĩa của Lời kêu gọi thi đua ái quốc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nguồn: Cục Văn hóa cơ sở, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
1. Để phong trào Thi đua yêu nước phát triển sâu rộng, thường xuyên, thì công việc đầu tiên cần phải quan tâm, chuẩn bị chu đáo là vấn đề cán bộ và công tác cán bộ cho phong trào.
Giải quyết vấn đề cấp bách, cơ bản này, Người đã ký Sắc lệnh số 195/SL (1-6-1948) thành lập Ban vận động Thi đua ái quốc Trung ương và các cấp. Cùng ngày, Người ký Sắc lệnh 196/SL cử một số vị đại diện cho Quốc hội, Chính phủ và các đoàn thể nhân dân vào Ban vận động Thi đua ái quốc Trung ương. Sau đó, cùng với việc mời Cụ Tôn Đức Thắng làm Trưởng ban vận động Thi đua ái quốc Trung ương, Người còn viết thư cho cụ Hoàng Đạo Thuý - một người có nhiều kinh nghiệm thực tế, nhiệt tình và xốc vác, mời cụ về làm Tổng bí thư cho Ban vận động Thi đua ái quốc Trung ương. Có đội ngũ cán bộ cốt cán, Người bắt tay vào việc vạch kế hoạch, chương trình cho việc huấn luyện cán bộ của phong trào thi đua.
Cụ Hoàng Đạo Thuý từng kể lại, trong một tài liệu nói về Cán bộ thi đua do Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tháng 6-1948, Người đặc biệt lưu ý việc phải cấp tốc đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác thi đua ở cấp cơ sở. Người chỉ rõ: “Từ khu đến huyện mỗi cán bộ phụ trách một xã”, và yêu cầu những cán bộ đó “phải hiểu thấu” mục đích, nội dung, cách thức và ý nghĩa của thi đua, để tuyên truyền cho Nhân dân hiểu rõ: “Thi đua ái quốc là ích lợi cho mình, ích lợi cho gia đình mình và ích lợi cho làng, cho nước, cho dân tộc” [1]. Cũng trong tài liệu này, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ vai trò của đội ngũ cán bộ ở cấp cơ sở, coi đó là yếu tố cần thiết để phong trào Thi đua ái quốc ăn sâu, lan rộng trong quần chúng. Người coi trọng công tác thi đua ở địa bàn cơ sở và yêu cầu những cán bộ thi đua khi được giao trách nhiệm phụ trách địa bàn “phải họp với cán bộ địa phương, đặt kế hoạch, lập tổ xung phong” trước khi đặt kế hoạch cụ thể. Sau đó, trong nhiều tài liệu khác, đặc biệt là bức thư gửi cho cụ Tôn Đức Thắng (11-1948), Người đã bàn cụ thể với cụ Trưởng ban vận động Thi đua ái quốc Trung ương kế hoạch, chương trình để huấn luyện cán bộ làm công tác thi đua, cụ thể là “huấn luyện cán bộ xã trước hết”. Theo Người, để có một đội ngũ cán bộ đông đảo làm công tác thi đua các cấp, thì cách thức huấn luyện theo nguyên tắc “vết dầu loang” vừa đảm bảo được việc gia tăng số lượng cán bộ một cách nhanh chóng, vừa đảm bảo được chất lượng chuyên môn của cán bộ. Từ đó, qua thực tiễn kiểm nghiệm, “lựa chọn những cán bộ xã có năng lực nhất, đưa dần lên làm cán bộ huyện, tỉnh, khu” [2].
Cách lựa chọn người tiêu biểu nhất, được huấn luyện, có kinh nghiệm, có năng lực và trưởng thành từ cơ sở để đưa lên phụ trách ở cấp cao hơn, là một cách đào tạo, sử dụng và luân chuyển cán bộ rất độc đáo, mang đậm dấu ấn Hồ Chí Minh.
2. Thi đua ái quốc là một phong trào cách mạng của quần chúng, gắn bó chặt chẽ với nhiệm vụ cách mạng của từng thời kỳ, cho nên phải dựa vào quần chúng để phát triển phong trào.
Từ quan điểm rất giản dị “công việc hàng ngày chính là nền tảng thi đua”, Người kêu gọi: “Toàn thể quốc dân ta, vô luận ở địa vị nào, làm công việc gì, phải ra sức tham gia cuộc Thi đua yêu nước” [3]. Cùng với sự phát triển của tiến trình cách mạng, tuy có thể khác nhau về tên gọi cụ thể, nhưng khi “mọi người đều thi đua, mọi việc đều có thi đua”, thì thi đua “diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”, “hậu phương thi đua với tiền phương”, “thi đua mỗi người làm việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào miền Nam ruột thịt” và “thi đua giết giặc lập công” hay “thi đua dạy tốt, học tốt”, v.v… cũng đều thể hiện rõ tinh thần thi đua: Người người thi đua. Ngành ngành thi đua. Ngày ngày thi đua. Ta nhất định thắng. Địch nhất định thua” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tất cả các phong trào thi đua và những gương điển hình của các thời kỳ, dù diễn ra trong lĩnh vực nào và thuộc đối tượng nào (như: Tuần lễ vàng, Hũ gạo cứu đói, “Gió Đại phong” trong nông nghiệp, “Sóng Duyên Hải” trong công nghiệp, “Cờ Ba nhất” trong quân đội, “Ba sẵn sàng” trong thanh niên xung phong, “Ba đảm đang” trong phụ nữ, “Thầy thuốc như mẹ hiền” trong y tế, xây dựng “Chi bộ 4 tốt” trong toàn Đảng,v.v…) cũng đều toát lên nội dung tư tưởng: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua, những người thi đua là những người yêu nước nhất”. Gắn thi đua với tinh thần yêu nước, coi đó là động lực của phong trào thi đua là cách nhìn sâu rộng, là sự phát triển mới về chất trong thi đua theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Cùng với việc phát động phong trào thi đua yêu nước, khơi dậy tinh thần yêu nước trong mỗi người dân đất Việt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã biến phong trào thi đua yêu nước thành sức mạnh của toàn dân tộc.
Dựa vào quần chúng để phát triển phong trào Thi đua yêu nước một cách toàn diện, liên tục, kịp thời cổ vũ, động viên phong trào, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thúc đẩy phong trào ngày càng phát triển cũng chính là một nét độc đáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Thi đua ái quốc.
3. Muốn phong trào thi đua phát triển, thi đua phải có mục đích rõ ràng, nội dung thiết thực, biện pháp vận động phù hợp và phải có quyết tâm cao.
Cũng từ ý nghĩa lớn lao của phong trào “Thi đua để gây hạnh phúc cho dân”, Người chỉ rõ: Thi đua không phải công việc riêng của một người, một ngành, một địa phương mà là trách nhiệm chung của toàn xã hội. Thi đua chỉ có trong chế độ xã hội mới, khác hoàn toàn về bản chất với ganh đua, mang ý nghĩa tích cực: khuyến khích, động viên mỗi người phát huy sáng kiến, nỗ lực hoàn thành tốt và hoàn thành vượt mức công việc hàng ngày của mình. Song từ nhiệm vụ cụ thể của mỗi người, mỗi ngành, mỗi địa phương, việc xác định khẩu hiệu thi đua phải thể hiện được rõ mục tiêu, tránh việc nêu ra quá nhiều khẩu hiệu, dẫn đến tình trạng: “Nhiều đích quá thì loạn mắt, không bắn trúng đích nào”.
Tuy nhiên, Người cũng yêu cầu: Nội dung thi đua phải cụ thể, thiết thực, có kế hoạch tỉ mỉ, gắn với từng nhiệm vụ, từng công việc của mỗi cá nhân, mỗi tập thể, mỗi địa phương, mỗi ngành, tránh tình trạng “nơi thì đặt kế hoạch to quá, rồi làm không nổi. Nơi thì ban đầu làm quá ồ ạt, đến nỗi ít lâu thì đuối sức đi, không tiếp tục thi đua được” [4], càng phải tránh hiện tượng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”. Từ việc xác định rõ mục đích, nội dung, nhiệm vụ và ý nghĩa của thi đua trong từng thời điểm cụ thể, theo Người: phải đa dạng hoá phương pháp, biện pháp thi đua để đạt kết quả cao nhất. Mỗi người đều phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, có “ý thức trách nhiệm và tinh thần làm chủ tập thể”, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, để hoàn thành tốt và hoàn thành vượt mức công việc của mình.
“Kế hoạch 10 phần thì biện pháp phải 20 phần và quyết tâm 30 phần” [5] là công thức rất độc đáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh để đưa phong trào thi đua yêu nước đến đích thắng lợi.
4. Muốn phong trào Thi đua yêu nước phát triển, có chất lượng tất phải có sự lãnh đạo đúng.
Có sự lãnh đạo đúng là một yêu cầu khách quan, đảm bảo sự thắng lợi của phong trào. Không phải ngẫu nhiên, chỉ sau hơn một năm thực hiện Thi đua ái quốc, tháng 8-1949, trong Lời kêu gọi thi đua chuẩn bị tổng phản công, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại viết: “Còn nhiều nơi Nhân dân, mà trước hết là cán bộ, chưa hiểu thật rõ ràng ý nghĩa của phong trào Thi đua ái quốc”, do đó mà tưởng lầm rằng thi đua là công việc khác với những việc thường ngày, tưởng lầm rằng thi đua chỉ nhất thời, các kế hoạch không ăn khớp với nhau, không biết trao đổi kinh nghiệm với nhau, máy móc áp dụng chỉ thị của cấp trên, v.v.. Thực tiễn theo dõi và chỉ đạo phong trào, Người yêu cầu: Từ cán bộ đến các đơn vị phụ trách thi đua đều phải đi sâu, đi sát trong việc chỉ đạo thực hiện, tránh hiện tượng “chuồn chuồn đạp nước”. Mặt khác, dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Ban vận động thi đua các cấp, “các tổ chức như thanh niên, phụ nữ, công đoàn phải phối hợp chặt chẽ với nhau” đôn đốc phong trào, tránh “xu hướng bản vị, cục bộ”, v.v…
Để thi đua yêu nước ăn sâu, lan rộng trong quần chúng, phát huy được sức mạnh của quần chúng, thiết thực cải tạo con người, cải tạo và “chiến thắng những tính xấu trong mình ta”, Người chỉ rõ: Thi đua phải có sự lãnh đạo chặt chẽ, “lãnh đạo phải cụ thể, phải kịp thời, phải thiết thực, phải có trọng điểm và nắm tình hình. Phải chống tư tưởng ngại khó khăn, tư tưởng ỷ lại” [6]. Cũng theo Người, ở những nơi phong trào thi đua phát triển mạnh, cần phải bảo đảm lãnh đạo phong trào thi đua ngày một tốt hơn, phải “toàn diện và chu đáo”, không được “chủ quan, tự mãn”, để tiến lên giành những thắng lợi mới, còn ở những nơi phong trào yếu, cán bộ làm công tác thi đua càng phải cố gắng nhiều hơn.
Lãnh đạo đúng, lãnh đạo một cách sâu sát, đồng bộ ở tất cả các ngành, các cấp là một nhân tố quan trọng, không thể thiếu, là điều kiện cần thiết để đảm bảo sự thắng lợi của phong trào. Đó cũng là một phương thức lãnh đạo rất Hồ Chí Minh.
5. Kịp thời tổng kết rút kinh nghiệm, suy tôn những cá nhân, những tập thể gương mẫu điển hình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Thi đua là gieo trồng và khen thưởng là thu hoạch. Người cũng khẳng định: “Lao động sáng tạo xã hội. Thi đua thì cải tạo con người” [7]. Như vậy, có thể thông qua việc cổ vũ, động viên quần chúng nhân dân tham gia phong trào thi đua yêu nước, thông qua việc tổng kết, rút kinh nghiệm, kịp thời khen thưởng suy tôn các cá nhân, các tập thể gương mẫu, “những người tiên phong trong sản xuất, mà cũng là gương mẫu về đạo đức cách mạng. Họ đặt lợi ích chung của dân tộc trên lợi ích của cá nhân. Họ toàn tâm toàn ý phục vụ Nhân dân”, góp phần thúc đẩy phong trào Thi đua yêu nước ngày càng phát triển.
Từ ý nghĩa đó, có thể thấy rõ: Kết quả của một phong trào cách mạng sôi nổi, thường xuyên, đều khắp hưởng ứng Lời kêu gọi Thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là sự xuất hiện của hàng nghìn anh hùng, chiến sĩ thi đua được tuyên dương trong 4 Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc (1952, 1958, 1962, 1966), hàng vạn đơn vị, tổ đội lao động XHCN được khẳng định trong các cuộc tổng kết ở các hội nghị ngành, địa phương, v.v… và vô vàn những bông hoa người tốt, việc tốt trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội được vinh danh trên các phương tiện báo chí. Cũng theo lời Người, đó thực sự là những bông hoa đẹp, những trái ngọt nở rộ trong vườn hoa của chủ nghĩa anh hùng cách mạng (từng được in trong những cuốn sách Người tốt, việc tốt như: Việc nhỏ nghĩa lớn, Dũng cảm đảm đang, Hậu phương thi đua với tiền phương, Thế hệ anh hùng, Vì nước vì dân, Dân tộc anh hùng giai cấp tiên phong, Hợp tác xã là nhà xã viên là chủ). Đó thực sự là những con người không “ganh tỵ về địa vị và hưởng thụ”, “không giấu nghề, không dìm những người anh em chung quanh mình”, “không tự kiêu, tự mãn, tự ti, tự lợi” và luôn có tinh thần mình vì mọi người, sẵn sàng giúp đỡ mọi người cùng tiến bộ” mà những việc làm rất đỗi bình thường của họ vẫn hàm chứa ý nghĩa đạo đức tinh thần lớn lao.
Cũng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Tổng kết, rút kinh nghiệm không chỉ có giá trị động viên mọi người hăng hái thi đua, mà còn giúp những cán bộ và cơ quan lãnh đạo xác định thực chất sự phát triển, quy mô và sức lan toả của phong trào, đồng thời giúp cho việc định hướng, hoàn chỉnh nội dung thi đua, mở rộng các hình thức thi đua, để từ đó khuếch trương được cái hay của mình và học được cái tốt của người khác, ngành khác. Từ việc tổng kết, rút kinh nghiệm và khen thưởng kịp thời, phong trào Thi đua yêu nước sẽ tránh được hiện tượng bỏ lỡ thời cơ để đẩy mạnh, hoặc chuyển hoá phong trào sang một giai đoạn mới. Đồng thời, cũng qua công việc này, tránh được tình trạng tổng kết lấy lệ, chạy theo thành tích, tránh chủ nghĩa bình quân, chủ nghĩa cào bằng trong thi đua. Bởi rằng, Người cũng từng nhấn mạnh: Tổng kết hình thức, khen thưởng không đúng thực chất vừa không nêu đúng bản chất, nội dung của phong trào Thi đua yêu nước, vừa bỏ sót cái hay, bỏ qua cái dở, thành ra tổng kết thì có, nhưng kinh nghiệm và bài học thì không có ý nghĩa thực tiễn nào.
Tổng kết rút kinh nghiệm, suy tôn những cá nhân, những tập thể gương mẫu điển hình để nhân rộng những hạt giống quý “có sức lan toả sâu rộng trong quần chúng”, đồng thời góp phần cung cấp một đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm, có năng lực, trưởng thành từ thực tế cho Đảng và Nhà nước là một cách tổng kết, nêu gương mang đậm phong cách lãnh đạo của Hồ Chí Minh.
76 năm phong trào Thi đua ái quốc ra đời và phát triển dưới sự soi sáng, chỉ dẫn kịp thời, đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh (11/6/1948-11/6/2024), cũng là 76 năm Thi đua ái quốc phát huy được sức mạnh tổng hợp, tinh thần đoàn kết trong toàn dân, đoàn kết với quốc tế để góp phần to lớn vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Chiến tranh đã lùi xa, nhưng khát vọng về một đất nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, phồn vinh và phát triển trên đường hội nhập càng khẳng định vị trí, vai trò và sự đóng góp to lớn của phong trào Thi đua yêu nước. Ôn lại để thấm nhuần hơn nữa những chỉ dẫn của Người về phong trào thi đua yêu nước giữa những ngày tháng 6 lịch sử này, cũng là thiết thực khơi dậy lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tinh thần vượt mọi khó khăn của toàn dân, thu hút mọi tầng lớp nhân dân, mọi lứa tuổi, mọi tôn giáo, mọi dân tộc và kiều bào ta ở nước ngoài tích cực tham gia vào phong trào Thi đua yêu nước.
Cùng với thời gian, hy vọng rằng, dưới sự soi sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo sâu sát, kịp thời của Đảng, sự quan tâm của các ngành, các cấp, phong trào thi đua yêu nước sẽ ngày càng phát triển và đi vào chiều sâu. Thông qua phong trào, mỗi cá nhân, mỗi tập thể, mỗi địa phương, mỗi ngành, v.v.. sẽ phát huy tinh thần yêu nước, thực hành tiết kiệm, đóng góp sức mình cho xã hội, cho đất nước, làm cho phong trào Thi đua yêu nước thực sự trở thành nguồn động lực vô cùng mạnh mẽ để “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” [8], thúc đẩy sự nghiệp đổi mới vì một nước Việt Nam hùng cường, sánh vai với các cường quốc năm châu trên thế giới như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và ước vọng của toàn dân tộc./.
Chú thích:
[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 6, tr. 170.
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 5, tr. 642.
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 5, tr. 513.
[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 6, tr. 169.
[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 14, tr. 485.
[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 10, tr. 213.
[7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 7, tr. 408.
[8] ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tập I, tr.111.
TS Đặng Công Thành, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
Theo Hochiminh.vn
Tâm Trang (st)