Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng xây dựng bộ máy các cơ quan tư pháp và xác định đây là cơ quan trọng yếu của chính quyền. Ðối với thiết chế Viện Công tố, sau này là Viện Kiểm sát nhân dân, Bác đã có chỉ đạo rất sâu sát và toàn diện từ việc hoàn thiện mô hình tổ chức, cử nhân sự lãnh đạo cho ngành, đến việc đặt ra những yêu cầu cụ thể đối với cán bộ kiểm sát.
Cả cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn trăn trở và tâm nguyện phải xây dựng Nhà nước thật sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Người nói: "Nước ta là một nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân... chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra"(1). Với cương vị Chủ tịch Ủy ban dự thảo Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959, Người đã trực tiếp chỉ đạo việc soạn thảo và tư tưởng quan trọng này đã được ghi nhận trang trọng trong Hiến pháp. Tại Ðiều 1 Hiến pháp năm 1946 quy định rõ: "Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo".
Là người rất am hiểu về chế độ chính trị, cách thức tổ chức quyền lực nhà nước trên thế giới, song gắn với các yêu cầu cụ thể của cách mạng nước ta lúc bấy giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn phương thức tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất.
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng xây dựng bộ máy các cơ quan tư pháp và xác định đây là cơ quan trọng yếu của chính quyền. Bác coi phát triển tư pháp là cơ sở để xã hội phát triển. Người nói: "Tư pháp có tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt người dân mới có được hệ thống pháp luật bảo vệ".
Ðối với thiết chế Viện Công tố, sau này là Viện Kiểm sát nhân dân, Bác đã có chỉ đạo rất sâu sát và toàn diện từ việc hoàn thiện mô hình tổ chức, cử nhân sự lãnh đạo cho ngành, đến việc đặt ra những yêu cầu cụ thể đối với cán bộ kiểm sát.
Trên cơ sở kết quả Hội nghị cải cách tư pháp tháng 3-1950 do Người chủ trì, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 85-SL ngày 22-5-1950 về cải cách tư pháp và luật tố tụng, và Sắc lệnh số 103/SL ngày 5-6-1950 quy định mối liên hệ giữa Ủy ban kháng chiến với các cơ quan chuyên môn. Trước đây, với quan niệm việc hộ (việc dân sự) thường chỉ liên quan các đương sự, không ảnh hưởng đến xã hội, nên công tố bị hạn chế tham gia quá trình giải quyết loại việc này. Tuy nhiên, sau cải cách tư pháp năm 1950, với sự chỉ đạo của Bác Hồ, vai trò của Viện Công tố trong lĩnh vực này được tăng cường một bước, công tố được giao trách nhiệm kháng cáo cả việc hộ. Ðồng thời, còn tăng cường trách nhiệm của công tố trong giám sát việc giam giữ, thi hành án hình sự và thi hành án dân sự để bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân.
Sau năm 1954, trước sự chuyển biến của tình hình cách mạng và sự trưởng thành của đội ngũ cán bộ tư pháp đòi hỏi phải có sự đổi mới căn bản về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó có cơ quan công tố. Trên cơ sở đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo xây dựng đề án tăng cường bộ máy Chính phủ và bộ máy Nhà nước, trong đó có nội dung thành lập hệ thống Viện Công tố độc lập. Tại phiên họp ngày 29-4-1958, Quốc hội đã nghe Chính phủ báo cáo và thông qua đề án nêu trên. Viện Công tố được tách thành một hệ thống độc lập, tổ chức từ trung ương đến địa phương, Viện Công tố trung ương trực thuộc Hội đồng Chính phủ, có trách nhiệm, quyền hạn ngang một Bộ (tiền thân của Viện Kiểm sát nhân dân sau này). Ðồng thời, đề cử đồng chí Bùi Lâm, nguyên Vụ trưởng Hành chính - Tư pháp làm Viện trưởng Công tố Trung ương, là người đã được Bác Hồ rèn luyện, giao nhiệm vụ tổ chức đường dây liên lạc, chuyển tài liệu cách mạng từ Pháp về Việt Nam từ năm 1922. Viện Công tố, ngoài nhiệm vụ thực hành quyền công tố còn được giao nhiệm vụ giám sát việc chấp hành pháp luật trong lĩnh vực tư pháp (bao gồm: giám sát các hoạt động điều tra, xét xử, thi hành án, giam, giữ, cải tạo). Trong lĩnh vực tố tụng dân sự, Viện Công tố có trách nhiệm khởi tố và tham gia tố tụng đối với những vụ án quan trọng liên quan lợi ích của Nhà nước. Có thể thấy, ngay từ thời điểm cách mạng này, tư tưởng của Hồ Chủ tịch về việc thiết lập hệ thống Viện Công tố độc lập, tách khỏi Tòa án, không còn thuộc sự quản lý của Bộ Tư pháp về hành chính, đảm nhiệm hai chức năng thực hành quyền công tố và giám sát hoạt động tư pháp thực chất đã tạo bước chuẩn bị quan trọng cho việc hình thành một hệ thống cơ quan mới trong bộ máy nhà nước (Viện Kiểm sát nhân dân) ở lần sửa đổi Hiến pháp tiếp theo (1959).
Bắt đầu từ năm 1959, cách mạng nước ta bước vào giai đoạn xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc với nhiệm vụ: Xây dựng, cải tạo nền kinh tế và nền văn hóa của miền Bắc theo chủ nghĩa xã hội. Một trong những yêu cầu quan trọng của xây dựng chủ nghĩa xã hội là phải bảo đảm pháp chế thống nhất. Nhận thức rõ nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới, Ðảng, Quốc hội quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1946. Yêu cầu mới của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa "đòi hỏi pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, đòi hỏi một sự nhất trí về mục đích và hành động trong nhân dân, giữa nhân dân và Nhà nước, cũng như giữa những ngành hoạt động nhà nước với nhau, nếu không đạt được sự thống nhất trong việc chấp hành pháp luật thì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ gặp nhiều khó khăn"(2). Trên tinh thần đó, tiếp thu tư tưởng vĩ đại của Lê - nin, với cương vị Chủ tịch Ủy ban sửa đổi Hiến pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo thiết lập một hệ thống cơ quan mới trong bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa - đó là Viện Kiểm sát Nhân dân, nhằm giữ vững pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm và thống nhất.
Sự quan tâm, chăm lo của Bác đối với Ngành Kiểm sát nhân dân còn thể hiện ở việc Bác đề cử nhân sự lãnh đạo cao nhất cho ngành. Trong những ngày đầu thành lập, do công tác kiểm sát là công tác mới trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, đội ngũ cán bộ mới và còn nhiều bỡ ngỡ, các ngành cũng chưa quen với hoạt động của Viện Kiểm sát, nên Bác Hồ đã cử đồng chí Hoàng Quốc Việt, người chiến sĩ cộng sản kiên cường, mẫu mực, nhà lãnh đạo tài năng của Ðảng sang giữ chức vụ Viện trưởng Kiểm sát nhân dân tối cao đầu tiên. Ðây là sự quan tâm đặc biệt của Ðảng và Bác Hồ đối với ngành kiểm sát.
Ðảm nhận trọng trách do Trung ương Ðảng và Bác Hồ giao, trong suốt 16 năm liền giữ chức vụ Viện trưởng Kiểm sát nhân dân tối cao, đồng chí Hoàng Quốc Việt đã toàn tâm, toàn ý cho việc củng cố và phát triển hệ thống Viện Kiểm sát Nhân dân; cùng tập thể lãnh đạo của ngành đề ra những chủ trương, định hướng, biện pháp công tác hết sức đúng đắn, có ý nghĩa quyết định đối với chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát, nhằm phục vụ nhiệm vụ chiến lược của cách mạng, góp phần quan trọng củng cố pháp chế, trong xây dựng và thực hiện pháp luật. Những chủ trương công tác và biện pháp chỉ đạo của đồng chí Hoàng Quốc Việt đối với ngành kiểm sát nhân dân không chỉ đúng trong giai đoạn những năm 60 và đầu những năm 70 của thế kỷ 20 mà còn nguyên giá trị đối với công cuộc cải cách tư pháp, đổi mới ngành kiểm sát nhân dân giai đoạn hiện nay.
Kế thừa tư tưởng của Bác về chọn người đứng đầu ngành kiểm sát, năm 1976, sau khi đồng chí Hoàng Quốc Việt chuyển công tác khác, Ðảng và Nhà nước cử đồng chí Trần Hữu Dực, Phó Thủ tướng Chính phủ sang đảm nhận chức vụ Viện trưởng Kiểm sát nhân dân tối cao, một lần nữa thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Ðảng và Nhà nước đối với công tác tư pháp nói chung và ngành kiểm sát nói riêng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực về đạo đức cách mạng, một nhân cách trong sáng, thanh tao, suốt đời tận tụy vì nhân dân, vì Tổ quốc.
Mỗi ngành nghề, mỗi tầng lớp nhân dân, Bác luôn có những lời nói về đạo đức cách mạng thật giản dị mà sâu sắc, thấm thía. Ðối với cán bộ kiểm sát, Bác căn dặn "Cán bộ kiểm sát phải: Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn". Xuất phát từ tính chất của công tác kiểm sát là công tác phát hiện vi phạm, tội phạm, đụng chạm đến sinh mệnh, tự do, danh dự và nhân phẩm của con người, do vậy đòi hỏi cán bộ kiểm sát phải có cái tâm trong sáng, nhìn nhận, đánh giá sự việc một cách chính xác, công bằng, tôn trọng sự thật, phải tạo lập cho mình bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn đứng về lẽ phải và kiên quyết bảo vệ lẽ phải như Bác đã từng nói "Giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy lực không thể khuất phục"(3). Về tác phong và phương pháp làm việc, Bác yêu cầu cán bộ kiểm sát phải khách quan, thận trọng, phải xuất phát từ thực tế, dựa trên những căn cứ khoa học để phân tích kỹ lưỡng, toàn diện sự việc trước khi đưa ra các quyết định, tránh sai sót. Khiêm tốn là đức tính mà Bác Hồ yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ kiểm sát phải rèn luyện. Khiêm tốn đòi hỏi phải đánh giá đúng về bản thân mình, không kiêu căng, tự mãn, cầu thị học hỏi để ngày càng thêm tiến bộ. Có khiêm tốn mới có đủ tỉnh táo để nhận thức chân lý một cách đúng đắn, khách quan, đồng thời mới có được sự ủng hộ của nhân dân.
Thực hiện lời Bác dạy, hơn 50 năm qua, các thế hệ cán bộ kiểm sát đã không ngừng học tập, nâng cao trình độ, rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, nỗ lực phấn đấu, vượt qua khó khăn, thử thách, hoàn thành trọng trách mà Ðảng và nhân dân giao phó. Nhiều tập thể và cá nhân được nêu gương điển hình tiên tiến, vinh dự được Ðảng và Nhà nước tặng thưởng Bằng khen và Huân chương cao quý. Nhiều cán bộ, kiểm sát viên đã trở thành tấm gương sáng cho các thế hệ mai sau học tập, cả về chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp.
Thực hiện công cuộc cải cách tư pháp hiện nay do Ðảng ta khởi xướng và lãnh đạo, hơn lúc nào hết, mỗi cán bộ, kiểm sát viên phải quyết tâm phấn đấu, rèn luyện thực hiện theo lời Bác dạy. Làm được điều này chính là góp phần thực hiện mục tiêu quan trọng của cải cách tư pháp "Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa..."(4). 63 năm qua những tư tưởng sâu sắc về Ngành Kiểm sát Nhân dân và lời dạy quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là bài học quý giá để cán bộ, nhân viên quyết tâm xây dựng ngành kiểm sát nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, góp phần bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật.
(1) Hồ Chí Minh toàn tập. T5. NXB Sự thật, Hà Nội, 1985, tr 299.
(2) Tờ trình Hiến pháp năm 1959, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 1960.
(3) Hồ Chí Minh toàn tập. T6. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr 54.
(4) Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 2-6-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Theo http://www.nhandan.com.vn
Huyền Trang (st)