Trong những năm bôn ba hoạt động cách mạng, Bác Hồ đã gặp muôn vàn gian lao, nguy hiểm; mấy lần bị tù đày, bị toà án thực dân Pháp kết án tử hình vắng mặt vào năm 1929 theo phán quyết số 115 ngày 10/10/1929 của Toà án Vinh (Nghệ An). Song với bản lĩnh vững vàng, sự thông thái và cẩn trọng; cộng với sự trợ giúp của lương tri và chính nghĩa, Người  đã vượt qua mọi gian nguy, tiếp tục lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Tháng 6/1931, Bác Hồ đang hoạt động tại Hồng Kông với tên gọi Tống Văn Sơ, thì bị cảnh sát Hồng Kông bắt giữ. Đây không phải là một vụ bắt bớ ngẫu nhiên mà là sự phối hợp giữa mật thám Pháp tại Đông Dương và cảnh sát Hồng Kông, sau khi bắt được một người Pháp có tên Lefranc (Lơphơrăng), là cán bộ Thanh tra của Quốc tế Cộng sản đang hoạt động tại Singapore và Đông Dương. Lefranc được Quốc tế Cộng sản cử theo dõi, giúp đỡ Đảng Cộng sản Đông Dương khi đó đang gặp rất nhiều khó khăn do sự đàn áp đẫm máu của chính quyền thực dân Pháp những năm 1930-1931. Cảnh sát thu được một bức thư tiếng Pháp viết bằng mực hoá học của Lefranc gửi cho T.V Wong, tức Nguyễn Ái Quốc ở số nhà 186 phố Tam Lung, Cửu Long, Hồng Kông.

chuyen-bh-a

Bác Hồ với gia đình luật sư Loseby trong dịp thăm Việt Nam năm 1960
(bà Nguyễn Thị Cúc đứng hàng sau)

Từ bức thư này, tung tích của Nguyễn Ái Quốc bị lộ và 4 ngày sau khi Lefranc bị bắt tại Singapore (2/6), cảnh sát Hồng Kông đã bắt được Nguyễn Ái Quốc tại địa chỉ trên vào ngày 6/6/1931. Vụ bắt giữ Tống Văn Sơ được cảnh sát Hồng Kông tiến hành bí mật, với âm mưu nhanh chóng trục xuất Tống Văn Sơ về Đông Dương, theo đúng kế hoạch của mật thám Pháp để thực hiện bản án tử hình đã tuyên năm 1929.

Nhà cầm quyền thực dân Pháp tại Đông Dương rất vui mừng trước tin đã bắt được Nguyễn Ái Quốc và nóng lòng chờ đợi chiếc tàu buôn Pháp từ Hồng Kông trở về mang theo nhà cách mạng lừng danh, dự kiến cuối tháng 9/1931 sẽ cập bến Nhà Rồng (Sài Gòn) - nơi mà đúng 20 năm trước, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã lên chiếc tàu Amiral Latouche Treville ra đi tìm đường cứu nước (5/6/1911).

Nằm trong âm mưu dẫn độ Nguyễn Ái Quốc về Đông Dương để thi hành án tử hình, nhà cầm quyền Pháp dùng mọi thủ đoạn để vận động Chính phủ Anh và Hội đồng Hành pháp Hồng Kông sớm trục xuất Nguyễn Ái Quốc.  Ngày 26/6/1931, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp chỉ đạo Đại sứ Pháp tại London: “Tôi đề nghị ông can thiệp khẩn cấp với Chính quyền Anh. Ông hãy chỉ ra rằng, kẻ phiến loạn này nguy hiểm đối với tất cả các thuộc địa của châu Âu ở Viễn Đông và hoạt động của ông ta mở rộng đến tận Singapore, sang cả vùng Ấn Độ...”.

chuyen-bh-b
Tác giả và bà Cúc (ảnh chụp tháng 5/2013 tại TP Hồ Chí Minh)

Về phần mình, Nguyễn Ái Quốc nhận thức mình đang ở trong một tình thế cực kì nguy hiểm. Người nhớ lại: “Khi bị bắt giam, trong tâm trạng chỉ có một điều là lo, không phải lo cho số phận mình sau này sẽ ra sao, vì sẵn biết kết quả cuối cùng chỉ có thể: Hoặc sẽ bị bọn thực dân thủ tiêu; hoặc sẽ thoát khỏi xiềng xích, trở lại hoạt động cách mạng. Lo là lo những công việc mình làm chưa xong, ai sẽ tiếp tục làm thay? Ít nhiều kinh nghiệm của mình đã gom góp được, làm thế nào để truyền lại cho đồng chí khác? Những mối manh và những địa điểm chỉ có mình biết từ nay ai sẽ xây dựng lại?… Trong cái rủi cũng có cái may: Bác vào nhà giam vài hôm thì đồng chí Hồ Tùng Mậu được ra tù để rồi bị bắt về nước.

Đồng chí Mậu báo tin Bác bị bắt cho Công ty Luật sư Russ (của người Anh), giám đốc Công ty Russ là luật sư Loseby vào nhà giam gặp Bác và nói ông sẽ ra sức cãi hộ Bác. Bác nói: “Tôi không có tiền trả cho ông đâu”. Ông Loseby: “Tôi biết ông là nhà cách mạng Việt Nam, tôi cãi hộ ông là vì danh dự chứ không nhất thiết chỉ vì tiền”. Từ đó, ông bà Loseby hết lòng giúp đỡ Bác về mặt án kiện cũng như về đời sống trong tù”.

Với sự giúp đỡ tận tình của luật sư  Loseby và dư luận tiến bộ, cùng với sự ứng phó thông minh của Tống Văn Sơ, âm mưu của mật thám Pháp và cảnh sát Hồng Kông đã thất bại. Trải qua 9 phiên toà xét xử, kể cả việc kháng án lên Hội đồng Cơ mật Hoàng gia Anh, Toà án đã không thể khép Tống Văn Sơ vào một tội danh nào và buộc phải trả tự do cho Người sau 20 tháng bị tù đày (từ tháng 6/1931 đến tháng 1/1933). Buổi chiều ngày 22/1/1933, Nguyễn Ái Quốc bí mật cùng người thư kí riêng của luật sư Loseby rời khỏi Hồng Kông bằng chiếc thuyền  riêng của Thống đốc Hồng Kông, ra khơi và lên chiếc tàu Anhui đi Hạ Môn. Sau đó Người đi Thượng Hải rồi sang Liên Xô…

Gần 30 năm sau khi thoát khỏi nhà tù Hồng Kông, mùa Xuân năm 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời gia đình luật sư Loseby thăm Việt Nam với tư cách là khách mời đặc biệt của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trước đó nhiều năm, dịp lễ Noel, năm mới nào gia đình Loseby cũng nhận được thiệp chúc mừng và quà của Tống Văn Sơ - Hồ Chí Minh.

Tháng 5/2013, nhân kết thúc chuyến công tác ra Trường Sa, tôi đến thăm bà Nguyễn Thị Cúc, một vị lão thành cách mạng, hiện trú tại phường Trường Thọ, quận Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh. Bà Nguyễn Thị Cúc và ông Trịnh Ngọc Thái (nguyên Đại sứ nước ta tại Pháp) là người phiên dịch cho gia đình luật sư Francis Henry Loseby trong chuyến thăm Việt Nam năm 1960. 

Theo hồi ức của hai người phiên dịch, họ được Bác trực tiếp giao nhiệm vụ phiên dịch cho gia đình vị ân nhân. Ngày 26/1/1960 (28 Tết Nguyên đán Canh Tý), Bác thân hành sang sân bay Gia Lâm đón khách. Bác ngồi trong phòng khách, còn ông Cao Hồng Lãnh (Phó Ban đối ngoại Trung ương Đảng), ông Vũ Kỳ (Thư kí của Bác), ông Thái và bà Cúc, cùng một số người khác ra tận chân cầu thang máy bay đón gia đình luật sư Loseby. Khi họ đưa gia đình luật sư vào phòng khách, Bác đã đứng đợi từ lúc nào, Người xúc động ôm thắm thiết luật sư Loseby sau gần 30 năm xa cách; nhìn hai mái đầu bạc kề sát bên nhau, mọi người đều không khỏi trào nước mắt. Ông bà Loseby và con gái là Patisia (thường gọi là cô Pát) cũng rất xúc động trước sự đón tiếp nồng nhiệt của phía chủ nhà…

Trong chuyến thăm Việt Nam (từ ngày 26/1 đến ngày 3/2/1960), gia đình luật sư Loseby đã được đón một cái Tết đặc sắc của dân tộc Việt Nam và có nhiều hoạt động ý nghĩa: Thăm các nhà máy, trường học, Vịnh Hạ Long, các danh lam thắng cảnh của Hà Nội…

Và giờ phút chia tay đầy lưu luyến được bà Cúc ghi lại: Bác Hồ tiễn gia đình luật sư Loseby đến tận sân bay Gia Lâm. Trong khi chờ máy bay cất cánh, Bác cùng ông bà Loseby và cô Pát ngồi uống trà, nói chuyện vui vẻ. Bác thân mật vỗ nhẹ vào vai cô Pát: “Bao giờ có đám cưới, cháu Pát nhớ cho Bác hay nhé!”. Tiếc rằng, sau khi ông bà Loseby mất tại Hồng Kông, cô Pát trở về London và sống độc thân suốt đời. Cô Pát mang theo tất cả những kỉ vật của gia đình với Bác Hồ. Trước lúc mất, cô Pát đã nhờ người cháu của luật sư Loseby tặng lại các kỷ vật đó cho Bảo tàng Hồ Chí Minh./.

 

Theo Trần Duy Hiển

http://www.cand.com.vn/

Minh Nguyệt (st)

Bài viết khác: