Cách đây tròn 60 năm, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng Quân ủy, Bộ Tư lệnh chiến dịch cùng các lực lượng vũ trang (LLVT) cách mạng đã mở Chiến dịch Điện Biên Phủ. Qua 56 ngày đêm chiến đấu kiên cường, gian khổ, ngày 7-5-1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ đã kết thúc toàn thắng. Chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” tại Điện Biên Phủ đã góp phần quyết định thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, mở đầu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ, đánh dấu bước phát triển mới của nhân dân Việt Nam và thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

moc-son-bqllang.gov.vn
Bác Hồ gắn Huân chương và Huy hiệu chiến sĩ Điện Biên Phủ tặng 5 chiến sĩ xuất sắc đại diện các đơn vị vừa chiến thắng tại Điện Biên Phủ về Việt Bắc mừng sinh nhật Bác (ngày 19-5-1954). Ảnh tư liệu.

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, chiến thắng Điện Biên Phủ là một một kỳ tích vẻ vang của thời đại Hồ Chí Minh. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng vĩ đại nhất, tạo bước ngoặt lịch sử làm thay đổi hẳn cục diện chiến tranh, trực tiếp dẫn đến việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ; bảo vệ và phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám, mở ra giai đoạn cách mạng mới, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Chiến thắng Điện Biên Phủ là mốc son chói lọi, mang tầm vóc thời đại, góp phần to lớn vào phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ của nhân loại; đã chứng minh một chân lý của thời đại: Các dân tộc bị áp bức, bị xâm lược, nếu có ý chí kiên cường và đường lối đúng đắn, sáng tạo, biết đoàn kết đấu tranh vì độc lập tự do thì dân tộc đó nhất định thắng lợi. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã thôi thúc và cổ vũ các nước thuộc địa ở Châu Á, châu Phi, Mỹ La tinh đứng lên đấu tranh tự giải phóng, thoát khỏi ách xâm lược của chủ nghĩa thực dân, đế quốc.

Đánh giá về ý nghĩa, tầm vóc của Chiến thắng Điện Biên Phủ, Đảng ta từng khẳng định, Chiến thắng Điện Biên Phủ đã ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng, một Đống Đa của thế kỷ 20 và đi vào lịch sử thế giới như một mốc son chói lọi, đánh dấu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân.

Chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng của sự kế thừa, phát huy truyền thống, lịch sử vẻ vang hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước, truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm kiên cường, bất khuất của dân tộc ta. Trong thế kỷ 20, truyền thống đó, sức mạnh đó được nhân lên, trước hết nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đảng ta đã đề ra đường lối chiến tranh nhân dân, đường lối kháng chiến đúng đắn - yếu tố quyết định để chúng ta chiến thắng quân đội viễn chinh Pháp - một đội quân thực dân đế quốc nhà nghề, từng chiến thắng và áp đặt sự cai trị ở nhiều nơi trên thế giới.

moc-son-bqllang.gov.vnb
Lá cờ "Quyết chiến quyết thắng" và chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng bộ đội ta trên chiếc xe tăng thu được của Pháp, diễu hành mừng chiến thắng tại Điện Biên Phủ. Ảnh tư liệu.

Ngay khi quân Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám, được sự hậu thuẫn của quân Anh, chúng đã đề ra kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh. Trong bối cảnh đó, Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Nhờ đường lối đúng đắn đó, chúng ta đã huy động được sức mạnh của toàn dân tộc trên tất cả các lĩnh vực: Chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, ngoại giao...; đã kiên trì chủ trương đánh lâu dài, biến nhỏ thành lớn, yếu chuyển thành mạnh; phát huy lợi thế, thế mạnh của chiến tranh nhân dân, sức mạnh từ nhân dân. Bộ đội chủ lực của ta lúc đầu còn nhỏ bé, nhưng càng đánh càng được bổ sung lực lượng, vũ khí trang bị, ngày càng lớn mạnh, trưởng thành.

Trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, quân Pháp muốn tập trung binh lực, dựa vào quân đội nhà nghề để giành thế chủ động trên chiến trường chính Bắc Bộ. Trong khi đó, Bác Hồ, Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Tổng Quân ủy đề ra chủ trương của chúng ta là dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân, lấy LLVT nhân dân làm nòng cốt, giành thế chủ động, buộc quân Pháp phải phân tán binh lực. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Chiến thắng Điện Biên Phủ cho thấy, Đảng ta có chủ trương chiến lược quân sự đúng đắn, nghệ thuật chiến dịch, chiến đấu tài tình. Trong xây dựng quân đội, xây dựng LLVT, luôn giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt Quân đội nhân dân và các LLVT nhân dân. Lực lượng đó đặt dưới sự chỉ huy thống nhất của Bộ Tổng tư lệnh tối cao. Việc phát huy sức mạnh của thế trận chiến tranh nhân dân thể hiện trong suốt quá trình chuẩn bị và tiến hành chiến tranh. Chúng ta đã thực hiện tốt chủ trương: Mỗi người dân là một chiến sĩ, cả nước trở thành hậu phương, cả nước là chiến trường, nhằm đánh tiêu hao, tiêu diệt, căng kéo quân chủ lực Pháp. Đó còn là nghệ thuật lấy nhỏ thắng lớn, lấy yếu thắng mạnh, lấy trường kỳ kháng chiến để đánh bại ý đồ đánh nhanh, thắng nhanh của quân Pháp.

Chủ tịch Hồ Chí Minh có vai trò đặc biệt quan trọng trong những thời điểm có ý nghĩa quyết định của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cũng như trong trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, qua khảo sát thực tế chiến trường, lấy ý kiến dân chủ của cán bộ lãnh đạo trong Đảng ủy, Bộ Chỉ huy chiến dịch và cố vấn nước bạn, đã đề xuất Bộ Chính trị, Tổng Quân ủy đi đến quyết định lịch sử: Thay đổi phương châm tác chiến từ đánh nhanh, thắng nhanh, sang đánh chắc, tiến chắc. Quyết định đó cũng là thể hiện sự chỉ đạo hết sức cụ thể của Bác Hồ: “Trận này hết sức quan trọng, chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh!”.

Sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh làm cho sức mạnh dân tộc ta được tăng cường bằng sức mạnh của thời đại. Chúng ta đã tranh thủ được sự giúp đỡ, ủng hộ to lớn của các nước bạn bè, đặc biệt là các nước XHCN, trực tiếp là của Liên Xô, Trung Quốc… góp phần tăng cường sức mạnh chính trị, tinh thần, vật chất… để chúng ta giành thắng lợi quyết định tại chiến trường Điện Biên Phủ.

Để có Chiến thắng Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu”, cùng với tinh thần chiến đấu ngoan cường, quả cảm của bộ đội ta tại mặt trận, một yếu tố hết sức quan trọng là tinh thần “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng” của toàn dân, toàn quân ta. Chiến thắng Điện Biên Phủ có sự phối hợp của các chiến trường cả nước, bằng các cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953-1954, từ Tây Bắc, Việt Bắc đến Đồng bằng sông Cửu Long, chiến trường Tây Nguyên và cả bên nước bạn Lào, Cam-pu-chia, góp phần “chia lửa” với Điện Biên Phủ, căng kéo quân địch ra, không cho chúng tập trung binh lực, vật lực chi viện cho tập đoàn cứ điểm.

Để chi viện sức người, sức của cho Chiến dịch Điện Biên Phủ, chúng ta đã huy động tối đa sức mạnh của hậu phương, của hậu cần nhân dân. Hàng chục vạn dân công, thanh niên xung phong được huy động vận chuyển lương thực, nhu yếu phẩm từ Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Yên Bái, Phú Thọ… lên Tây Bắc. ở hậu phương, Đảng, Nhà nước ta thực hiện chính sách giảm tô, cải cách ruộng đất, mang lại quyền lợi chính đáng cho gia đình, hậu phương bộ đội, dân công, thực sự tăng thêm niềm tin, sức mạnh của mọi người, ở cả hậu phương và tiền tuyến… tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn chiến thắng quân thù.

Chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng của sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, của chiến tranh nhân dân, của LLVT nhân dân, trong đó Quân đội nhân dân Việt Nam làm nòng cốt, luôn trung thành, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ. Trước Chiến dịch Điện Biên Phủ, quân đội ta đã trưởng thành, lớn mạnh vượt bậc cả về tổ chức, vũ khí, trang bị và cách đánh; đã được rèn luyện, thử thách qua nhiều chiến dịch của 9 năm kháng chiến; đã rút ra nhiều bài học kinh nghiệm thành công cũng như chưa thành công và được vận dụng triệt để trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Qua chỉnh huấn, chỉnh quân và tiến hành tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nên cán bộ, chiến sĩ tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ có ý chí quyết tâm rất cao, sẵn sàng chấp nhận gian khổ, hy sinh để hoàn thành nhiệm vụ.

Chiến thắng Điện Biên Phủ khẳng định, trong chiến tranh, yếu tố con người là quyết định, trong đó nhân tố chính trị tinh thần có vai trò đặc biệt quan trọng và là ưu thế tuyệt đối của chúng ta trước kẻ thù xâm lược. Trước Chiến dịch Điện Biên Phủ, hệ thống tổ chức đảng trong quân đội được củng cố, cơ quan chính trị các cấp được tăng cường; công tác đảng, công tác chính trị thực sự trở thành “linh hồn”, “mạch sống” của quân đội. Công tác đảng, công tác chính trị trong Chiến dịch Điện Biện Phủ đã biến sức mạnh chính trị tinh thần của quân và dân ta thành sức mạnh vật chất to lớn để làm nên chiến thắng vĩ đại, tô thắm truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.

Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, đất nước ta, tuy vẫn tạm thời bị chia cắt, song miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng, đi lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta có một hậu phương lớn mạnh, vững chắc cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của cả nước và chiến trường 3 nước Đông Dương, đồng thời tạo tiền đề để sau này cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng đánh giá: “Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là dấu mốc bằng vàng. Đó là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta, mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Chiến thắng Điện Biên Phủ càng làm sáng ngời chân lý của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay: Chiến tranh xâm lược của bọn đế quốc nhất định bị thất bại, cách mạng giải phóng của các dân tộc nhất định thành công” (1).

Chiến thắng Điện Biên Phủ là thành quả của đường lối chiến tranh nhân dân Việt Nam, sức mạnh của LLVT nhân dân và của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, kết hợp với sức mạnh thời đại. Tiếp nối Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, dân tộc ta đã viết tiếp bản anh hùng ca chói lọi trong thời đại Hồ Chí Minh, lập những chiến công hiển hách “Điện Biên Phủ trên không” năm 1972, Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, giành nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới gần 30 năm qua, đưa đất nước ta lên một tầm cao mới, với thế và lực mới, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.

Chiến thắng Điện Biên Phủ trở thành di sản tinh thần quý báu, mãi mãi là niềm tự hào, là nguồn sức mạnh cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta ra sức phấn đấu thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và các nghị quyết, kết luận Hội nghị Trung ương, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Quân đội ta đang xây dựng theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng Quân đội theo Nghị quyết Đại hội XI và Nghị quyết Trung ương 8 (Khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới” đặt ra những vấn đề mới. Những bài học kinh nghiệm về công tác đảng, công tác chính trị trong Chiến dịch Điện Biên Phủ vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn, cần được nghiên cứu, quán triệt sâu sắc, tiếp tục bổ sung, phát triển lý luận, vận dụng vào thực tiễn, để công tác đảng, công tác chính trị luôn là “linh hồn”, “mạch sống” của quân đội, góp phần quan trọng bảo đảm và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội, xây dựng quân đội ta vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954/7-5-2014) là dịp để chúng ta tiếp tục khẳng định ý nghĩa lịch sử, tầm vóc vĩ đại của Chiến thắng Điện Biên Phủ; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược; khẳng định vai trò và đóng góp to lớn của các LLVT và nhân dân cả nước, trực tiếp là lực lượng tham gia chiến dịch và đồng bào các dân tộc Tây Bắc. Đây cũng là dịp đẩy mạnh các hoạt động giáo dục, tuyên truyền sâu rộng trong thế hệ trẻ, cán bộ, chiến sĩ LLVT và nhân dân, khơi dậy niềm tự hào dân tộc, kế thừa và phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống cách mạng vẻ vang, thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân của Đảng; là dịp để tưởng nhớ công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta, người cha thân yêu của LLVT nhân dân; tưởng nhớ bao đồng chí, đồng đội và đồng bào đã không tiếc máu xương và tuổi trẻ, hy sinh to lớn để lập nên chiến thắng lẫy lừng, giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc.

Chiến thắng Điện Biên Phủ đến nay đã tròn 60 năm, nhưng tầm vóc, ý nghĩa, bài học và tầm ảnh hưởng sẽ còn vang vọng, truyền lại mãi đến hôm nay và mai sau. Phát huy tinh thần quyết chiến, quyết thắng của Điện Biên Phủ, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta chủ động nắm bắt thời cơ, vượt mọi khó khăn, thử thách, kiên định Chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, củng cố niềm tin vững chắc vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã lựa chọn. Những bài học kinh nghiệm quý báu được đúc kết từ Chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn còn nguyên giá trị để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta khơi dậy lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, chủ nghĩa anh hùng cách mạng; phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc và của cả hệ thống chính trị, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn cách mạng mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

Thượng tướng Ngô Xuân Lịch

Bí thư Trung ương Đảng, ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam

Theo Báo Quân đội nhân dân

Kim Yến (st)

Bài viết khác: