Có nhiều, rất nhiều tài liệu của Việt Nam và phương Tây khẳng định một cách rõ ràng, chắc chắn Việt Nam đã phát hiện hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa từ thời Vương quốc Chămpa và tiếp tục hành xử chủ quyền trong thế kỷ XVII.

Từ thế kỷ XVI trở về trước đã có những nhà hàng hải phương Tây ghi chép trên bản đồ vùng các quần đảo giữa Biển Đông hiện nay là Baixos de Chapar (Bãi đá ngầm Chămpa), Pulo Capaa (đảo của Chămpa), cũng như trên bản đồ Biển Đông (Sinensis Oceanus) của anh em Van Langren người Hà Lan in năm 1595, trên bờ biển ở khu vực từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi hiện nay có ghi dòng chữ Costa de Pracel (bờ biển Pracel). Điều đó cho thấy, họ đã xác nhận vùng quần đảo này thuộc chủ quyền của Vương quốc Chămpa. Với nguồn thư tịch của Việt Nam thì Toàn tập An Nam tứ chí lộ đồ thư do Đỗ Bá soạn theo chỉ thị của chúa Trịnh Căn, trong đó đoạn thứ nhất của lời chú về Bãi Cát Vàng lại được ông trích từ phần thứ ba của Hồng Đức bản đồ nên nó cho thấy, người Việt đã biết, hay là đã tiếp quản quần đảo Hoàng Sa từ Vương quốc Chăm khi vua Lê Thánh Tông thực hiện cuộc nam chinh và lập ra đạo Thừa tuyên Quảng Nam vào năm 1471. Sách này viết: “Họ Nguyễn mỗi năm vào tháng cuối mùa đông đưa 18 chiếc thuyền đến đấy lấy hàng hóa, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn”. Như vậy, không chỉ có phát hiện và đặt tên nôm Bãi Cát Vàng, điều quan trọng là người Việt đã hành xử chủ quyền trên đó. Đến năm 1776, khi đang giữ chức Hiệp trấn tham tán quân cơ ở Thuận Hóa, Lê Quý Đôn viết Phủ biên tạp lục mô tả tỉ mỉ hơn về vị trí địa lý, sản vật của Hoàng Sa, cũng như cơ cấu tổ chức, chức năng của đội Hoàng Sa. Ông viết: “Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào cắt phiên mỗi năm cứ tháng hai nhận giấy sai đi mang lương đủ ăn 6 tháng đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo ấy. Ở đấy tha hồ bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hóa vật của tàu như là gươm ngựa hoa bạc, tiền bạc hòn bạc, đồ đồng khối thiết, khối chì, súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ, đồ chiên, cùng là kiếm lượm vỏ đồi mồi, vỏ hải ba, hải sâm, hột ốc vân rất nhiều. Đến kỳ tháng 8 thì về vào cửa Eo [Thuận An], đến thành Phú Xuân để nộp...”. Lê Quý Đôn chưa cho biết thời gian cụ thể lập đội Hoàng Sa thì chính lá đơn của cai đội phường Cù lao Ré, xã An Vĩnh (thuộc huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi hiện nay) viết vào ngày 15 tháng Giêng niên hiệu Cảnh Hưng thứ 36 (1776) cho biết: “Nguyên xã chúng tôi từ xưa đã có hai đội Hoàng Sa và Quế Hương. Vào năm Tân Mùi Đốc chiến Võ Hệ đã đệ đơn tâu xin, được cho lập hai đội nữa là đội Đại Mạo Hải Ba và Quế Hương Hàm với nhân số 30 người... Bây giờ chúng tôi lập hai đội Hoàng Sa và Quế Hương như cũ... Nếu như có tờ truyền báo xảy ra chinh chiến, chúng tôi xin vững lòng ứng chiến với kẻ xâm phạm. Xong việc rồi chúng tôi lại xin tờ sai ra tìm báu vật cùng thuế quan đem phụng nạp. Xin dốc lòng theo sở nguyện chẳng dám kêu ca. Chúng tôi cúi đầu mang ơn”. Năm Tân Mùi là năm nào? Nếu ngược lại 60 năm thì đó là 1691, nhưng vì Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư viết năm 1686 đã cho biết ở thời điểm này các chúa Nguyễn hằng năm đưa 18 chiếc thuyền ra Bãi Cát Vàng khai thác rồi, thế thì phải ngược thêm 60 năm nữa, tức là vào năm 1631 dưới thời chúa Hy Tông Nguyễn Phúc Nguyên (1613 – 1635). Còn thông tin Đội Hoàng Sa “đến kỳ tháng 8 thì về vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp” sản vật trong Phủ biên tạp lục, thì được xác nhận bởi lá đơn của phường Mỹ Toàn tranh kiện phường An Bằng về việc kéo được một chiếc thuyền của đội Hoàng Sa bị dạt vào gần bờ biển của hai phường này vào năm Mậu Dần [1758] (nay thuộc xã Vinh Mỹ, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế), có lời phê của Thuận Đức Hầu là tuần quan cửa Biện Hải [tức cửa Tư Hiền] vào ngày 19 tháng 9 năm Cảnh Hưng 20 [1759] .

bai2

Hồng Đức bản đồ

Trong Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn còn có những mô tả kỹ càng về quần đảo Trường Sa và xác định nó gần xứ Bắc Hải (tức vùng biển thuộc quần đảo Trường Sa hiện nay) và chúa Nguyễn đã cho lập thêm đội Bắc Hải gồm những người thôn Tứ Chánh ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương sung vào để đi đến “các xứ Bắc Hải, Cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên tìm lượm vật của các tàu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai cơ Hoàng Sa kiêm quản”.

Các tài liệu của phương Tây cũng ghi nhận chủ quyền của Đàng Trong đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhật ký của tàu Amphitrite chở các giáo sĩ Pháp đi qua quần đảo Paracels (Hoàng Sa) vào năm 1701 ghi rõ: “Paracels là một quần đảo thuộc về nước An Nam”. John Barrow là phái viên của phái bộ Macartney đi từ Anh tới Trung Quốc cũng ghi chép lại trong Một chuyến du hành tới Đàng Trong vào những năm 1792 – 1793 (xuất bản tại London vào năm 1806) rằng: “Các thuyền xứ Đàng Trong dùng vào việc buôn bán ven biển, chài lưới, thu lượm hải sản và tổ yến trong nhóm quần đảo gọi là Paracels, thuộc nhiều kiểu dáng khác nhau”.

Sự hành xử của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được trích dẫn trong các nguồn sử liệu trên cho thấy nó không do tự phát của người dân mà đã ở tầm nhà nước phong kiến bấy giờ là các chúa Nguyễn đang trị vì ở Đàng Trong. Các Chúa Nguyễn chủ trương lập hai đội Hoàng Sa, Bắc Hải, bổ nhiệm chỉ huy đội kiêm chức vụ cai đồn cửa biển Sa Kỳ cùng chức Thủ ngự trông coi. Nó không chỉ được ghi chép bởi những cá nhân mà còn được đưa vào Đại Việt sử ký tục biên, là một bộ tín sử Việt Nam thời Hậu Lê và được chúa Trịnh Sâm sai biên soạn vào năm 1775. Sau đó còn được Quốc sử quán Triều Nguyễn đưa vào sách Đại Nam thực lục tiền biên (viết về thời các chúa Nguyễn, quyển X) với nội dung như Lê Quý Đôn đã viết. Sự hành xử này được tiếp tục đến thời Tây Sơn, và như một văn bản nữa đề ngày 14 tháng 2 năm Thái Đức thứ 9 (niên hiệu của vua Thái Đức – Nguyễn Nhạc vào năm 1786) cũng được lưu giữ tại nhà thờ họ Võ, phường An Vĩnh (nay là thôn Tây, xã Lý Vĩnh, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi) thì người chỉ huy đội Hoàng Sa thời Tây Sơn có tước hầu, còn người ra chỉ thị là quan Thái phó Tổng lý Quản binh dân chư vụ Thượng tướng công của chính quyền Tây Sơn. Sự hành xử này lại diễn ra hòa bình và liên tục kể cả trong thời gian có nội chiến Trịnh – Nguyễn – Tây Sơn mà không gặp phải sự phản kháng nào của các quốc gia khác. Lê Quý Đôn cho biết có trường hợp những người đi tìm hóa vật ở Hoàng Sa bị bão trôi dạt vào đất Trung Quốc được quan chính đường huyện Văn Xương Quỳnh Châu (Trung Quốc) trả về nguyên quán mà không một lời khiển trách nào, chứng tỏ phía Trung Quốc đã mặc nhiên thừa nhận chủ quyền của chúa Nguyễn đối với quần đảo này./.

PGS, TS Ngô Văn Minh

Theo ww.hoangsa.danang.gov.vn

Tâm Trang (st)

Bài viết khác: