Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (27-01-1973) là sự kiện lịch sử quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tạo điều kiện cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân ta đi đến thắng lợi hoàn toàn.

Cuối năm 1964, đầu năm 1965, trước những đòn tiến công mãnh liệt của quân và dân miền Nam, cả về quân sự và chính trị, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ đã bị phá sản, ngụy quân và ngụy quyền Sài Gòn đứng trước nguy cơ sụp đổ. Ðể cứu vãn tình thế, Mỹ thay đổi chiến lược từ “Chiến tranh đặc biệt” sang “Chiến tranh cục bộ”, thực chất là “Mỹ hóa” cuộc chiến tranh tại Việt Nam. Một mặt, Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam; mặt khác, tiến hành leo thang chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc, mở rộng chiến tranh xâm lược ra phạm vi cả nước. Trong ba năm 1965, 1966, 1967, Mỹ điên cuồng leo thang chiến tranh đánh phá miền Bắc.

Ðể lừa bịp dư luận, chính quyền của Tổng thống Mỹ Giôn-xơn rêu rao “miền Bắc xâm lược miền Nam”, mở cuộc vận động “ngoại giao hòa bình”, đòi “miền Bắc đình chỉ thâm nhập người và phương tiện chiến tranh vào miền Nam, rút quân khỏi miền Nam” và “đàm phán không điều kiện với Mỹ”.

Về phía ta, ngay từ đầu, Ðảng ta đã nhận định: Mỹ buộc phải “Mỹ hóa” cuộc chiến tranh vì chúng đang ở thế bị động về chiến lược. Mặc dù Mỹ đưa vào miền Nam mấy chục vạn quân và đánh phá ác liệt miền Bắc, nhưng lực lượng so sánh giữa ta và địch không có thay đổi lớn. Ta có cơ sở chắc chắn để giữ vững thế chủ động trên chiến trường, đánh bại âm mưu trước mắt và lâu dài của địch. Trên thực tế, Mỹ càng leo thang chiến tranh, càng vấp phải những đòn giáng trả mãnh liệt của ta. Về mặt chính trị, ta nêu cao chính nghĩa của cuộc chiến đấu, bóc trần bộ mặt xâm lược và tính chất nguy hiểm của các hành động leo thang chiến tranh cũng như thủ đoạn đàm phán hòa bình giả hiệu của Mỹ. Ta kiên quyết yêu cầu Mỹ chấm dứt các hành động xâm lược, rút hết quân khỏi miền Nam và chấm dứt vô điều kiện mọi hành động chiến tranh chống miền Bắc. Ðiều kiện tiên quyết để có đàm phán mà ta đưa ra là: Chỉ khi nào Mỹ chấm dứt ném bom, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới nói chuyện với Mỹ.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân miền Nam trong dịp Tết Mậu Thân năm 1968 cùng với thắng lợi của quân và dân miền Bắc trong đấu tranh chống chiến tranh phá hoại đã làm lung lay ý chí xâm lược của Mỹ. Ðêm 31-3-1968, phát biểu ý kiến trên truyền hình Mỹ, Tổng thống Giôn-xơn thừa nhận thất bại trong dịp Tết Mậu Thân và thông báo, đã ra lệnh chấm dứt mọi cuộc tiến công bằng máy bay và tàu chiến chống miền Bắc Việt Nam, trừ khu vực phía Bắc khu phi quân sự. Ông còn cam kết, “sẵn sàng đi bước đầu tiên trên con đường xuống thang” và không ra tranh cử Tổng thống Mỹ nhiệm kỳ tiếp theo.

Trong tình thế thay đổi có lợi cho ta, ta chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với Mỹ. Ngày 13-5-1968, cuộc đàm phán giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mỹ chính thức bắt đầu tại Pa-ri (Pháp), và sau gần 6 tháng đàm phán, hai bên đã đi đến thỏa thuận về việc Mỹ sẽ chấm dứt mọi hành động chiến tranh chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kể từ ngày 31-10-1968, đồng thời, thỏa thuận về việc triệu tập một Hội nghị tại Pa-ri để bàn việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, gồm các bên: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, Mỹ và chính quyền Sài Gòn.

Ngày 25-01-1969, Hội nghị Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam họp phiên đầu tiên, mở ra giai đoạn ta “vừa đánh, vừa đàm” với Mỹ. Hội nghị là cuộc đàm phán dài nhất để chấm dứt một cuộc chiến tranh dài nhất trong thế kỷ XX - cuộc chiến tranh diễn ra trên phạm vi một nước nhưng lại là tiêu điểm của những mâu thuẫn và xung đột mang tính thời đại: Giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động; giữa hòa bình với chiến tranh.

Hội nghị Pa-ri là cuộc đối thoại giữa hai thế lực đối đầu trên chiến trường, giữa một bên là lực lượng xâm lược có thế mạnh vượt trội về quân sự và kinh tế nhưng lại yếu về chính trị, tinh thần; với một bên là lực lượng bảo vệ Tổ quốc, tuy có điểm yếu tương đối về quân sự và kinh tế nhưng lại có thế mạnh tuyệt đối về chính trị - tinh thần và chính nghĩa. Hội nghị còn là cuộc đối chọi giữa hai nền ngoại giao: Nền ngoại giao nhà nghề của một siêu cường với nền ngoại giao của một nhà nước cách mạng còn non trẻ. Bởi vậy, đây là một cuộc đấu quyết liệt giữa hai ý chí, hai trí tuệ, hai loại pháp lý và đạo lý và mưu lược… khác nhau.

Chấp nhận đàm phán tại Hội nghị Pa-ri, ta và đối phương có những mục đích và đòi hỏi đối lập nhau: Ta yêu cầu Mỹ chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân và vũ khí khỏi miền Nam, xóa bỏ chính quyền bù nhìn tay sai, tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam; phía Mỹ cũng nói muốn chấm dứt chiến tranh, nhưng lại đòi miền Bắc và Mỹ cùng rút quân; đòi khôi phục lại khu phi quân sự và duy trì chính quyền Sài Gòn, nghĩa là Mỹ tiếp tục thực hiện âm mưu chia cắt lâu dài Việt Nam, điều Mỹ không làm được trên chiến trường.

Lập trường của bốn bên, mà thực chất là của hai bên Việt Nam và Mỹ, ở giai đoạn đầu rất mâu thuẫn và cách xa nhau, khiến cho các cuộc đấu tranh diễn ra gay gắt trên bàn Hội nghị, đến mức nhiều lúc phải gián đoạn thương lượng. Trong thời gian này, trên chiến trường, cả ta và Mỹ đều tìm mọi cách để giành thắng lợi quyết định về quân sự, nhằm thay đổi cục diện chiến trường, lấy đó làm áp lực cho mọi giải pháp chấm dứt chiến tranh dựa trên thế mạnh mà hai phía đang giành giật trên bàn đàm phán nhưng chưa đạt kết quả. Đối với ta, Hội nghị Pa-ri không chỉ là các cuộc đàm phán ngoại giao thông thường, mà còn là một mặt trận. Mặt trận ấy, một mặt, có ý nghĩa tuyên truyền cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của Việt Nam; mặt khác, đem lại sự xác nhận về kết quả của các cuộc đấu tranh vũ trang và chính trị trên chiến trường miền Nam, bởi vì: “Đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao. Chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn Hội nghị những cái mà chúng ta đã giành được trên chiến trường. Tuy nhiên, đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường, mà trong tình hình quốc tế hiện nay với tính chất cuộc chiến tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động”(1).

Những thắng lợi quân sự của ta trong năm 1971, 1972, với các chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, Đông Bắc và Đông Nam Cam-pu-chia, Trị Thiên, Bắc Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Bắc Bình Định, Khu 8 Nam Bộ,… đã khiến quân Mỹ - ngụy thiệt hại nặng nề, từng bước làm phá sản chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, tạo thế thuận lợi cho ta trên bàn đàm phán.

Ngày 8-10-1972, Phái đoàn Việt Nam đưa ra dự thảo “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” và đề nghị phía Mỹ thảo luận để đi đến ký kết. Lúc đầu, bản dự thảo được các bên nhất trí, nhưng đến ngày 22-10-1972 phía Mỹ lật lọng, viện dẫn chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đòi sửa đổi bản dự thảo. Trước nguy cơ bị thất bại hoàn toàn, Tổng thống Mỹ Ních-xơn quyết định thực hiện chủ trương có ý nghĩa chiến lược vượt khỏi khuôn khổ của “Việt Nam hóa chiến tranh”, nghĩa là “Mỹ hóa” trở lại một phần cuộc chiến tranh. Ngày 6-4-1972, Mỹ huy động một lực lượng lớn không quân và hải quân ồ ạt tham chiến ở miền Nam và trở lại đánh phá miền Bắc. Trong cuộc chiến tranh phá hoại lần này, Mỹ thực hiện leo thang nhanh, đánh phá với cường độ cao trên cả hai miền Nam, Bắc và coi đây là biện pháp mang tính quyết định. Theo đó, từ đầu tháng 4 đến tháng 5-1972, Mỹ huy động hơn 40% lực lượng không quân chiến thuật (1.300 chiếc), 45% máy bay ném bom chiến lược B-52 (150 chiếc), 60 tàu chiến, trong đó có 5 tàu sân bay và 5 tàu tuần dương. Chỉ tính riêng lực lượng không quân Mỹ đánh phá Việt Nam đã gần bằng lực lượng không quân của cả ba nước mạnh nhất Tây Âu lúc đó là Anh, Pháp và Tây Đức. Quyết định quay trở lại đánh phá miền Bắc Việt Nam, Tổng thống Mỹ Ních-xơn hy vọng sẽ bóp nghẹt miền Bắc, cắt đứt nguồn tiếp tế từ bên ngoài vào, làm cho miền Bắc suy yếu và buộc phải thương lượng với Mỹ trên thế thua.

Đánh giá đúng tình hình, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã chỉ đạo tập trung đập tan những cố gắng quân sự cuối cùng của Mỹ, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pa-ri. Đảng ta nhận định: Mỹ trắng trợn quay trở lại chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân trên quy mô lớn là nhằm hạn chế thắng lợi của quân và dân miền Nam, hòng cứu vãn tình thế suy sụp của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, cố giữ cục diện chiến trường miền Nam không xấu hơn nữa đối với chúng. Từ kinh nghiệm chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, Đảng ta chỉ đạo miền Bắc nhanh chóng chuyển từ thời bình sang thời chiến; chỉ đạo lực lượng phòng không kiên quyết giáng trả không quân Mỹ những đòn đích đáng.

Tháng 2-1971, tại Hội nghị Trung ương 19, Khoá III, sau khi đánh giá những thắng lợi của cả hai miền Nam - Bắc, Đảng ta đã phân tích tình hình và dự báo âm mưu sắp tới của đế quốc Mỹ trên cả hai miền: Trên chiến trường miền Nam, chúng sẽ ráo riết “bình định”, giành giật quyết liệt với nhân dân ta và phá hoại các vùng giải phóng, đồng thời, chúng sẽ tiếp tục những hành động phiêu lưu quân sự mới, tìm cách liều lĩnh mở những cuộc phản công cục bộ, hòng ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc đối với miền Nam. Hội nghị khẳng định: Nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta lúc này. Phải động viên sự cố gắng cao nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân trên cả hai miền nước ta, ra sức thực hiện Di chúc thiêng liêng của Hồ Chủ tịch, kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến, nêu cao ý chí quyết chiến quyết thắng, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn,… Quân và dân miền Nam phải đập tan kế hoạch “bình định”, đánh bại kế hoạch “Việt Nam hóa chiến tranh” của địch, làm cho ngụy quân, ngụy quyền phải sụp đổ và buộc đế quốc Mỹ phải rút nhanh, rút hết quân Mỹ và quân các nước chư hầu ra khỏi miền Nam nước ta, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Quân và dân miền Bắc phải sẵn sàng chiến đấu, kiên quyết chiến đấu tiêu diệt địch, đập tan mọi hành động khiêu khích và mở rộng chiến tranh của đế quốc Mỹ và tay sai, hết lòng hết sức làm tròn nghĩa vụ thiêng liêng của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn.

Năm 1972 được cả Việt Nam và Mỹ nhận định là năm quyết định cho cuộc chiến tranh. Vì vậy, các cuộc đàm phán giữa hai bên dần đi vào thực chất, càng về cuối càng có những chuyển biến quan trọng. Tuy nhiên, trong 6 tháng đầu năm, hai bên chưa thực sự đi vào đàm phán, vẫn nỗ lực trên chiến trường và thăm dò nhau trên bàn Hội nghị. Cuộc gặp riêng từ ngày 8 đến ngày 12-10-1972 là mốc đánh dấu bước chuyển căn bản của cuộc đàm phán. Trong cuộc gặp này, phía Việt Nam đưa ra dự thảo Hiệp định hoàn chỉnh và đề nghị Mỹ ký ngay vào đó. Hai bên thỏa thuận ngày 31-10-1972 sẽ ký Hiệp định chính thức tại Pa-ri. Tuy nhiên, ngày 22 và ngày 23-10-1972, Mỹ đòi hoãn ngày ký để thảo luận thêm. Như vậy, Hiệp định Pa-ri đã có thể được ký kết theo đúng lịch trình nếu không có sự lật lọng từ phía Mỹ.

Ngay sau khi Mỹ lật lọng, tráo trở, trì hoãn việc ký Hiệp định, đòi Việt Nam nhân nhượng thêm, ta quyết định công bố dự thảo Hiệp định mà hai bên đã thỏa thuận và tuyên bố không gặp lại trước ngày tuyển cử tổng thống Mỹ, như Mỹ đề nghị. Đảng ta nhận định: Mỹ muốn tiếp tục kéo dài chiến tranh trong một thời gian nữa để giành thắng lợi về quân sự, nhằm kết thúc chiến tranh trên thế mạnh.

Trước những diễn biến mới của tình hình, Quân ủy Trung ương nhận định: Mỹ sẽ tập trung đánh phá ác liệt từ Thanh Hóa trở vào, đồng thời có thể sẽ đánh phá trở lại miền Bắc với mức độ ác liệt hơn, kể cả dùng B-52 đánh phá ồ ạt vào Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố khác. Trước nguy cơ thất bại của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, đúng như ta đã dự kiến, sau ngày 23-10-1972, đặc biệt là sau khi trúng cử Tổng thống Mỹ (ngày 8-11-1972), Ních-xơn ráo riết chuẩn bị bước phiêu lưu quân sự mới. Mỹ trở giọng đe dọa, phá ngang, làm cho cuộc đàm phán tại Hội nghị Pa-ri bị gián đoạn; đồng thời tập trung lực lượng không quân ở mức cao nhất để đánh phá, ngăn chặn các tuyến giao thông từ nam vĩ tuyến 20 trở vào, trọng điểm đánh phá là các tuyến vận chuyển hàng hóa vào chiến trường miền Nam. Ngày 14-12-1972, Tổng thống Mỹ Ních-xơn quyết định mở cuộc tập kích đường không chiến lược mang tên “Lai-nơ-bếch-cơ II”, trong đó sử dụng chủ yếu các “siêu pháo đài bay B-52” đánh phá ác liệt Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, thị xã ở miền Bắc, từ ngày 18 đến ngày 30-12-1972. Ních-xơn hy vọng, với sức mạnh của không lực, Mỹ sẽ đạt được mục đích. Nhà sử học người Mỹ Giơ-lin-gơ-ri-nút tiết lộ: Ních-xơn, Kít-xinh-giơ và 1.700 nhân viên phi hành B-52 thực hiện cú đấm chiến lược này đều có niềm tin mãnh liệt ban đầu về kết quả chiến đấu. Với cả guồng máy đồng bộ và tính năng vũ khí như­ thế, Mỹ cho rằng, hệ thống ra-đa trinh sát phòng không và tên lửa “SAM -2” của Bắc Việt Nam cũng không thể nào “với tới” được. Tổng thống Mỹ Ních-xơn còn ngạo mạn cho rằng, B-52 bay vào Hà Nội sẽ như một cuộc dạo chơi. Bởi theo họ, trong nhiều năm nay, ở Nam Việt Nam B-52 là con át chủ bài giữ vai trò quyết định, các vũ khí phòng không của Việt Cộng không có tác dụng gì với B-52...

Thế nhưng, với ý chí và trí tuệ của con người Việt Nam, dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, quân và dân miền Bắc đã kịp thời giáng trả đế quốc Mỹ những đòn đích đáng để giành thắng lợi quyết định về quân sự. Cuộc đụng đầu lịch sử trong 12 ngày đêm tháng Chạp năm 1972 được ví là trận “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”. Trong 12 ngày đêm chiến đấu, quân và dân ta đã đập tan cuộc tập kích chiến lược quy mô lớn của đế quốc Mỹ, với kết quả: Bắn cháy 81 máy bay, trong đó có 34 máy bay ném bom chiến lược B-52 và 5 máy bay F.111, nhiều B-52 bị bắn rơi ngay tại Thủ đô Hà Nội; bắt sống 43 phi công, trong đó có 33 phi công lái B-52.

Thất bại liên tiếp trên chiến trường miền Nam và thất bại trong cuộc tập kích đường không chiến lược nhằm vào Hà Nội, Hải phòng và một số thành phố, thị xã ở miền Bắc Việt Nam đã làm cho ý chí đàm phán trên thế mạnh của Nhà Trắng bị đè bẹp, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận ngừng ném bom và bắn phá từ vĩ tuyến 20 trở ra kể từ ngày 30-12-1972. Ngày 6-01-1973, Tổng thống Mỹ Ních-xơn chỉ thị cho cố vấn đặc biệt của mình là Kít-xinh-giơ rằng, trong đàm phán sắp tới, Mỹ cần đạt được một giải pháp, cho dù đối phương có đưa ra những điều kiện khắt khe, đồng thời nhấn mạnh việc sẵn sàng chấp nhận văn bản dự thảo Hiệp định mà hai bên đã thỏa thuận vào tháng 10-1972. Ngày 8-01-1973, Mỹ buộc phải tiếp tục nối lại đàm phán trên thế yếu tại Hội nghị Pa-ri.

Ngày 15-01-1973, Chính phủ Mỹ tuyên bố chấm dứt ném bom bắn phá miền Bắc. Ngày 23-1-1973, Hiệp định và các nghị định thư được cố vấn đặc biệt của ta là Lê Đức Thọ và cố vấn Mỹ Kít-xinh-giơ ký tắt. Thất bại nặng nề của Mỹ trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc đã dập tắt những cố gắng quân sự cuối cùng của họ, buộc họ phải ký “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” vào ngày 27-01-1973.

Tại các cuộc đàm phán, trên tư thế chiến thắng, phái đoàn của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiên quyết đấu tranh và giữ vững được nội dung của dự thảo Hiệp định như đã thỏa thuận.

Trong thời gian khoảng 5 năm, Hội nghị Pa-ri đã phải trải qua 201 phiên họp công khai, 45 cuộc họp riêng cấp cao, 500 cuộc họp báo, 1.000 cuộc phỏng vấn, và cũng trong thời gian đó, có hàng nghìn cuộc mít tinh chống chiến tranh, ủng hộ Việt Nam. Trong các phiên họp chung công khai cũng như các cuộc tiếp xúc riêng, phía Việt Nam không bỏ qua bất cứ vấn đề quan trọng nào có liên quan đến cuộc chiến tranh ở Đông Dương, nhưng tập trung mũi nhọn đấu tranh vào hai vấn đề mấu chốt nhất, đó là: Yêu cầu Mỹ rút hết quân, trong đó có cả quân 5 nước đồng minh của họ ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, khỏi miền Nam Việt Nam; và yêu cầu họ tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam.

Với thắng lợi của Hiệp định Pa-ri năm 1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã thực hiện được mục tiêu “đánh cho Mỹ cút”, mở ra một giai đoạn mới, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện mục tiêu “đánh cho ngụy nhào”. Đây cũng là tiền đề để tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước vào năm 1975.

Hiệp định Pa-ri năm 1973 phản ánh ở mức cao những thắng lợi về quân sự và xu thế cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam trong bối cảnh quốc tế lúc bấy giờ. Ta đã tranh thủ được sự ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa, các nước không liên kết và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, từ đó hình thành trên thực tế “mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược”. Sự hình thành của mặt trận này đã thể hiện phương châm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế; kết hợp ngoại giao nhà nước với ngoại giao nhân dân.

Thắng lợi của Hiệp định Pa-ri năm 1973 đã góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Lào và Cam-pu-chia. Giải pháp về Lào được đưa ra (tháng 2-1973) gần như đồng thời với Hiệp định Pa-ri về Việt Nam. Hiệp định Pa-ri về Việt Nam còn mở đường cho thắng lợi của cách mạng Cam-pu-chia (tháng 4-1975).

Hiệp định Pa-ri năm 1973 là kết quả cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất của nhân dân ta ở cả hai miền đất nước, tạo ra bước ngoặt lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc. Cội nguồn thắng lợi tại Hội nghị Pa-ri là tinh thần quyết chiến quyết thắng, ý chí đấu tranh quật cường, bền bỉ, nhằm bảo vệ chân lý, chính nghĩa, lý tưởng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam. Cuộc đấu tranh này phản ánh sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trí tuệ của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam, trên cơ sở chính nghĩa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Hội nghị Pa-ri và Hiệp định Pa-ri về Việt Nam mãi mãi là trang sử vàng chói lọi, thể hiện cao độ bản lĩnh, tinh thần, trí tuệ của con người và nền văn hóa Việt Nam được kết tinh từ lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, để lại cho các thế hệ hôm nay và mai sau những bài học vô giá.

Hội nghị Pa-ri về Việt Nam còn là cuộc đấu tranh kiên cường vì các quyền cơ bản của dân tộc Việt Nam, được thể hiện trong Hiệp định - văn bản pháp lý toàn diện, đầy đủ nhất. Trong đó, Mỹ  buộc  phải cam kết “tôn trọng độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam”, điều mà họ đã cố tình lẩn tránh ở Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954. Đồng thời, Mỹ buộc phải rút hết quân về nước, trong khi ta duy trì được hoàn toàn lực lượng, khiến so sánh lực lượng trên chiến trường nghiêng hẳn về ta. Điều quan trọng nữa là, Hiệp định góp phần ngăn chặn mọi âm mưu can thiệp trở lại của Mỹ khi toàn dân, toàn quân ta giành thắng lợi hoàn toàn với đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử./.

(1) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2003, t. 28, tr. 174

Lê Hữu Đức/Thượng tướng, TS, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng

Theo tapchicongsan.org.vn
Minh Thu (st)

Bài viết khác: