Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một văn kiện lịch sử có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn về nhiều mặt. Từ lúc Người ra đi, Di chúccủa Người đã trở thành điều tâm niệm, thành kim chỉ nam cho hành động của toàn Đảng, toàn dân ta trong sự nghiệp đấu tranh nhằm “xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”, như điều mong muốn cuối cùng của Người. Bài này chỉ tìm hiểu một số phương diện của Di chúc: Những phác thảo có tính cương lĩnh cho sự nghiệp đổi mới.
Di chúc toát lên khí phách, tinh thần lạc quan chiến thắng của một bậc đại trí, đại nhân, đại dũng, luôn luôn vững tin vào tương lai tất thắng của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Giữa lúc cuộc chiến còn đang diễn ra quyết liệt và khó khăn, kẻ thù còn đang thi thố bao thủ đoạn tàn ác, xảo quyệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”.
Phóng tầm mắt về tương lai, Người đã trù liệu đến những công việc phải làm sau khi kháng chiến thắng lợi, đến việc thống nhất đất nước, đến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội sau chiến tranh…
1. Việc làm trước tiên theo Người là phải chỉnh đốn lại Đảng,“làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ của Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Đảng ta là một đảng cầm quyền”. Trong điều kiện chế độ chính trị một đảng ở nước ta, mỗi bước đi lên nhanh hay chậm của đất nước đều gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng. Người thường xuyên nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn luôn ý thức được sứ mệnh cao cả và trách nhiệm nặng nề đó.
Đặc biệt, ở mỗi bước chuyển của cách mạng, ở mỗi thời kỳ lịch sử mới, mỗi trận tuyến đấu tranh mới, thường xảy ra những chao đảo hoặc bất cập trong phẩm chất và năng lực, trong tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống… của cán bộ, đảng viên. Vì vậy, xốc lại đội ngũ, chỉnh đốn lại tư tưởng và tác phong, làm cho cán bộ, đảng viên đáp ứng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới, theo Người, phải là nhiệm vụ thường xuyên của công tác xây dựng Đảng.
Thực hiện Di chúc của Người, Đảng ta từ Đại hội IV (12-1976) đến nay đã liên tục mở nhiều cuộc vận động xây dựng Đảng và chỉnh đốn Đảng. Tròn các cuộc vận động đó, Đảng ta đã có nhiều hình thức và biện pháp nâng cao nhận thức chính trị - tư tưởng, rèn luyện đạo đức – lối sống cho cán bộ, đảng viên nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, nhiệm vụ mới. Qua các cuộc vận động, hàng vạn cán bộ,, đảng viên và cả một số tổ chức đảng, do mất đoàn kết, bè phái, cục bộ, quan liêu, mệnh lệnh, mất dân chủ, ức hiếp quần chúng, thoái hóa về chính trị và lối sống, vi phạm kỷ luật Đảng và pháp luật Nhà nước,... đã bị xử lý, đưa ra khỏi Đảng.
Tuy nhiên, một “câu hỏi đặt ra là vì sao Đảng đã có những chủ trương, biện pháp về công tác xây dựng Đảng, nhưng những tồn tại, yếu kém trong công tác này không những không giảm mà có chiều hướng tăng và nghiêm trọng hơn, do những nguyên nhân gì?”1
Có nguyên nhân khách quan do những tiêu cực của cơ chế thị trường ngoài xã hội tác động vào trong Đảng. Điều nay, ta chưa trù liệu được đầy đủ để sớm có kế hoạch đối phó ngay từ đầu.
Về chủ quan, trong hai nhiệm vụ “phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt”, thì công tác xây dựng Đảng vẫn chưa được thực hiện ngang tầm vị trí của nó; vẫn còn tình trạng nói nhiều, làm ít, nói và làm chưa đi đôi với nhau, vai trò nêu gương của những người lãnh đạo chưa tốt, kỷ luật chưa nghiêm minh, trên nhẹ, dưới nặng, không theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh: “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”2.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 ( lần 2) khóa VIII là một quyết tâm lớn của Đảng ta nhằm thực hiện tốt Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Trong công việc này, để đạt được kết quả mong muốn, chúng ta cần quán triệt sâu sắc hơn những tư tưởng cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, đặc biệt phải làm sao sống động sâu sắc đến mức tối đa những tư tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức sáng ngời của Bác trong toàn Đảng, toàn dân.
2. Di chúcđã dặn lại: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. Đó cũng là bản chất và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Người coi “Đó là một công việc cực kỳ to lớn, phức tạp và khó khăn. Chúng ta phải có kế hoạch sẵn sàng, rõ ràng, chu đáo, để tránh khỏi bị động, thiếu sót và sai lầm”.
Đây là một dự kiến sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bởi xây dựng chủ nghĩa xã hội là một việc mới mẻ, phức tạp, đầy khó khăn, nên không hoàn toàn tránh được những khuyết điểm sai lầm. Nhưng sau khi chiến tranh kết thúc, chúng ta đã để kéo dài quá lâu mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu cũ, chưa quan tâm khuyến khích đúng mức lợi ích chính đáng của người lao động; có lúc lại rơi vào giản đơn, chủ quan, nóng vội, duy ý trí, vừa “tả” vừa “hữu”, như Đại hội VI của Đảng ta đã tự phê bình.
Để phát triển kinh tế văn hóa, Người nhắc nhở phải biết phát huy tốt hệ thống các động lực của chủ nghĩa xã hội, trước hết là động lực chính trị - tinh thần đã góp phần đem lại thắng lợi cho cách mạng Việt Nam:
- Trước hết, Người nhấn mạnh tầm quan trọng hàng đầu của đoàn kết, “một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta”. Người yêu cầu: “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Đáng tiếc, truyền thống đó khi đi vào xây dựng sau chiến tranh đã bị suy yếu. Tình trạng mất đoàn kết, tranh giành quyền vị, lợi lộc, thậm chí còn đi tới đánh đổ nhau đã diễn ra ở nhiều nơi, đã làm suy yếu tổ chức đảng, làm giảm niềm tin yêu của quần chúng đối với người cộng sản cầm quyền.
- Thứ hai, là trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi. Người từng nói: “Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”3. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, theo Hồ Chí Minh, gồm hai quá trình. Một mặt cần mở rộng dân chủ nội bộ , tạo điều kiện cho “mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý”. Khi đã tìm thấy chân lý, “lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý”. “Nếu cán bộ không nói năng, không để ý kiến, không phê bình, thậm chí lại tâng bốc mình, thế là một hiện tượng rất xấu.. Thế là mất hết dân chủ trong Đảng. Thế là nội bộ của Đảng âm u”4.
Thực hiện Di chúc của Người, hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII đã ra nhiệm vụ “ nâng cao nhận thức thống nhất Đảng về nguyên tắc tập tung dân chủ. Xây dựng và bổ sung các quy định, quy chế thực hiện nguyên tắc này”.
- Thứ ba, là phải “thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình”. Tự phê bình và phê bình là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng, giáo dục, rè luyện cán bộ, đảng viên. Vì vậy, nó cần được tiến hành thường xuyên như việc soi gương, rửa mặt hàng ngày. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Đảng cách mạng cần phê bình và tự phê bình cũng như người ta cần không khí”5. Đáng tiếc, trong một thời gian khá dài, “thang thuốc hay và thiết thực nhất” này, như lời Người nói, còn ít được chúng ta dùng đến. Do đó, Người nhắc nhở: “Muốn tự phê bình và phê binh có kết quả, cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp cao phải làm gương trước”, phải mở cửa khuyến khích lãnh đạo phê bình và tự phê bình”.
- Thứ tư, là “phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”. Đạo đức cách mạng là một sức mạnh tinh thần to lớn. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản trước hết là ở những giá trị đạo đức của nó, ở phẩm chất đạo đức của người cộng sản, nhất là ở những người cộng sản cầm quyền.
Vì vậy, suốt đời mình, Hồ Chí Minh kiên trì giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Theo gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư của Người, bao thế hệ cán bộ, đảng viên ta đã sẵn sàng chấp nhận những thiệt thòi về vật chất để theo đuổi những giá trị tinh thần cao quý như liêm khiết, công bằng, chính trực… để xứng đáng là những chiến sỹ tiên phong, gương mẫu của Đảng.
Ngày này, mặt trái của cơ chế thị trường đang tác động tiêu cực, gây nên sự xuống cấp nghiêm trọng của đời sống đạo đức xã hội. Chủ nghĩa cá nhân cực đoan, chủ nghĩa cơ hội, thực dụng, lối sống buông thả, chạy theo dục vọng vật chất thấp hèn,.. đang có chiều hướng phát triển. Tiếc thay, trong số đó có không ít cán bộ, đảng viên có chức, có quyền, những người đang giữ vị trí cao trong hệ thống kinh tế quốc dân, trong bộ máy giám sát thi hành pháp luật của Nhà nước!
Chủ nghĩa xã hội không thể chiến thắng nếu mất đi những giá trị đạo đức của nó. Từ suy thoái về đạo đức đến suy thoái về chính trị là một bước tiến không xa. Nếu ai cũng chỉ chạy theo lợi ích riêng tư, xâm phạm lợi ích nhân dân, xâm phạm tài sải của Nhà nước thì chủ nghĩa xã hội sẽ lâm nguy! Ta hiểu vì sao Bác Hồ nói: “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”6 .
Một tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh được Người bổ sung vào Di chúc tháng 5-1968 là phần nói về con người: Đầu tiên là công việc đối với con người”. Chủ tịch Hồ Chí Minh ít nói về lý luận về con người, nhưng toàn bộ suy nghĩ và hành động của Người bao giờ cũng hướng về con người. Từ rất sớm, Người đã đưa ra những luận điểm nổi tiếng: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Người luôn luôn nhắc nhở phải coi nhân tố con người là vấn đề số một. Bàn về kế hoạch 5 năm phát triển công nghiệp, Người phát biểu: Muc đích của chủ nghĩa xã hội là nâng cao đời sông của nhân dân - lực lượng chính để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Muốn vậy, phải “có kế hoạch giáo dục, củng cố chi bộ, công đoàn, thanh niên. Ba lực lượng ấy mạnh thì mới lên được. Có người nói máy kéo là gốc, cũng có người nói cái khác là gốc, tôi nói chính cái này (chỉ ba lực lượng trên - B.T) là gốc”.
Trong một hội nghị Bộ Chính trị bàn về kế hoạch Nhà nước năm 1963, trước tình hình đời sống nhân dân có nhiều khó khăn, Người đề nghị nếu cần có thể giảm bớt một phần xây dựng để giải quyết vấn đề ăn và mặc cho quần chúng, đừng để tình hình đời sống căng thẳng quá. Người nói: “Vấn đề con người là hết sức quan trọng. Nhà máy cũng rất cần có thêm, có sớm, nhưng cần hơn là con người…phải quan tâm đến đời sống quần chúng và giáo dục quần chúng”.
Trong Di chúc, Người căn dặn cụ thể về những chính sách xã hội đối với con người sau chiến tranh. Đó là biểu hiện sâu sắc lòng yêu nước thương dân của một nhà nhân văn lỗi lạc. Người đề nghị miễn thuế nông nghiệp một năm cho nông dân “để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất”.
Với cán bộ, chiến sỹ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong từ chiến trường trở về “phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn”, phải mở những lớp dạy nghề thích hợp… để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”.
Với cha mẹ, vợ con thương binh, liệt sỹ, “phải giúp đỡ họ có công ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”.
Với chiến sỹ trẻ tuổi đã được rèn luyện trong chiến đấu, tỏ ra dũng cảm thì chọn số ưu tú đưa đi đào tạo để trở thành “đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta”.
Với các nạn nhân của xã hội cũ thì “phải dùng vừa giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ… trở nên những người lao động lương thiện”.
Có thể thấy chính sách xã hội của Hồ Chí Minh đối với con người thật là chu đáo và toàn diện. Người không chỉ quan tâm đến đời sống của họ, mà lớn hơn là chăm lo giáo dục, đào tạo họ trở thành lực lượng nòng cốt xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Về văn hóa – giáo dục, Người nêu vấn đề phải “sửa chế độ giáo dục cho hợp với hoàn cảnh mới… phát triển các trường nửa ngày học tập nửa ngày lao động”, đăc biệt phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng, giáo dục tinh thần yêu nước cho đoàn viên và thanh niên ta...
Có thể nói, Di chúc là phác thảo toàn diện về một chương trình xây dựng và đổi mới đất nước sau chiến tranh, cả về chính trị - kinh tế - xã hội và con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi những việc trên đây là “rất to lớn, nặng nề, và phức tạp, mà cũng là rất vẻ vang”, “một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Người chưa nói tới hai chữ đổi mới, nhưng tư tưởng chỉ đạo của Người và những việc Người nêu ra chính là những gợi mở có tính cương lĩnh cho sự nghiệp đổi mới mà Đảng ta và nhân dân ta đang tiến hành hiện nay.
Nhìn lại quá trình thực hiện Di chúc, có nhiều việc chúng ta đã làm được, có nhiều việc ta làm chậm, có nhiều việc ta chưa làm tốt. Nhiều nhân tố “mới mẻ, tốt tươi” đã xuất hiện, nhưng còn nhiều cái “cũ kỹ, hư hỏng” vẫn chưa được thanh toán, trái lại chúng đang có chiều hướng tăng lên, chẳng những đang làm giảm dần niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước mà còn có thể trở thành nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ.
Nghiên cứu Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta càng thấm thía: đổi mới quả là một “cuộc chiến đấu khổng lồ”, muốn thắng lợi, “cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”./.
PGS. Song Thành
Nguyên Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(Trích trong cuốn “45 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh 1969-2014”, Nxb Quân đội nhân dân)
1. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu( lần 2). Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1999, tr.12.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t5, tr.641
3. HỒ CHÍ MINH: Toàn tập, Sđd. 12, tr 249.
4. HỒ CHÍ MINH: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.216.
5. HỒ CHÍ MINH: Toàn tập, Sđd, t.6,tr.168.110.
6. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia HỒ CHÍ MINH: HỒ CHÍ MINH, Biên niên sử, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2008, t.8,tr.220,260.
Mỹ Linh (st)