Ngày 14/4/1975, lá cờ giải phóng hai màu xanh, đỏ với ngôi sao vàng đã tung bay trên đảo Song Tử Tây, mở màn cho chiến dịch giải phóng quần đảo Trường Sa. Đó cũng là thời điểm mà một người lính đặc công nước, trong trận đánh đầu tiên của đời binh nghiệp, đã chạm vào thời khắc lịch sử.

giai-phong-truong-sa-2
Kéo cờ giải phóng ở đảo Sơn Ca thuộc quần đảo Trường Sa năm 1975.

            Nhìn nhận thời cơ

"Sự kiện Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa ở phía Bắc ngày 19/1/1974 càng cho thấy tầm chiến lược của những mảnh đất xa xôi, chập chờn trên sóng gió biển Đông. Cần tổ chức giải phóng kịp thời phần đất này. Nếu chậm, để quân đội nước khác xâm chiếm, tình hình sẽ rất phức tạp... Theo thăm dò, triển vọng ở đây có dự trữ dầu lửa lớn. Có thể thấy biển và đại dương sẽ là nguồn tài nguyên chủ yếu của nhân loại kể từ thế kỷ 21", Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ rõ vấn đề và gọi đây là "một sự kiện đặc biệt diễn ra ngoài kế hoạch chiến lược ban đầu".

Quân ủy Trung ương kiến nghị với Bộ Chính trị vừa chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, vừa tiến hành giải phóng các đảo và quần đảo chính quyền Sài Gòn đang chiếm giữ. Kiến nghị ngay lập tức được ghi vào Nghị quyết Bộ Chính trị ngày 25/3/1975. Chính ủy Hải quân Hoàng Trà được điều về làm việc cạnh Bộ Tổng tham mưu, kiến nghị về nhiệm vụ của hải quân trong trận tổng giao chiến cuối cùng. Bộ Ngoại giao cung cấp tài liệu về các đảo, quần đảo thuộc vùng biển Việt Nam, Cục Quân báo nắm tình hình biển Đông.

Giải phóng các đảo do quân đội Việt Nam Cộng hòa đóng giữ trong quần đảo Trường Sa trở thành một hướng tiến công chiến lược trên biển, nhằm phối hợp với các hướng tiến công trên bộ vào Sài Gòn.

Khi các cánh quân trên đất liền ồ ạt tiến về Sài Gòn, lực lượng đặc công hải quân bất ngờ nhận lệnh giải phóng quần đảo Trường Sa trong tay quân đội Việt Nam Cộng hòa, bởi "nếu chậm, có thể quân đội nước ngoài xâm chiếm trước".

Tháng 3/1975, sau Chiến thắng Buôn Mê Thuột, chiến trường miền Nam chuyển biến mau lẹ. Ngoài thời cơ thống nhất đất nước, Bộ Tổng Tham mưu đứng đầu là Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhìn nhận cần gấp rút giải phóng các đảo trong quần đảo Trường Sa - vùng lãnh hải có vị trí chiến lược rất quan trọng về kinh tế và quân sự mà quân đội Việt Nam Cộng hòa đang nắm giữ.

Về thời cơ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp dặn dò: "Nếu đối phương đã rút toàn bộ hoặc rút đại bộ phận thì đánh chiếm ngay, nếu nước ngoài đánh chiếm trước thì đánh chiếm lại. Trên mặt trận biển Đông, hành động của Hải quân cũng phải thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng".

Nhiệm vụ được giao cho Đoàn 126, Quân chủng Hải quân. Đoàn đặc công nổi danh với hàng trăm trận đánh chìm tàu chiến của Mỹ ở Đông Hà - Cửa Việt làm lực lượng chủ công, phối hợp với đội đặc công nước của Tiểu đoàn 471 và Tiểu đoàn 4 của Trung đoàn 28, Sư đoàn 2 (Quân khu 5). Tàu vận tải quân sự của Trung đoàn 125 được giao nhiệm vụ chở quân. Thượng tá Mai Năng (sau là Thiếu tướng Mai Năng), Trưởng Đoàn 126 là chỉ huy trận này.

Khi đó, Trường Sa có 11 đảo có người ở do quân đội của ba nước và vùng lãnh thổ đóng giữ, gồm: Đài Loan chiếm giữ Ba Bình; Philippines giữ Thị Tứ, Vĩnh Viễn, Bến Lạc, Nam Côn, Song Tử Đông; chính quyền Việt Nam Cộng hòa đóng giữ Song Tử Tây, Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa Lớn và mới đặt bia chủ quyền ở đảo An Bang, chưa có người ở. Lực lượng quân đội Sài Gòn đóng giữ ở đây gồm khoảng 150 lính bảo an, thuộc Tiểu đoàn 371 Phước Tuy.

Giành chủ quyền

Khó khăn lớn nhất cho Hải quân là giải phóng các đảo trên một vùng biển rộng lớn với lực lượng nhỏ bé, xung quanh là sự lăm le của một số nước, trong đó có tàu của Hạm đội 7 Mỹ. Vị Tổng Tư lệnh lo lắng đặt câu hỏi: "Thời cơ giải phóng là như vậy, nhưng cách đánh thì sao? Trong tình hình vũ khí, phương tiện của ta còn kém hơn cả đối phương về số lượng và trình độ hiện đại?".

Bộ Tư lệnh giao nhiệm vụ phải giải phóng đồng loạt 6 đảo, khắc phục khó khăn, Thượng tá Mai Năng khi đó đã nhận định đặc công nước chỉ chuyên đánh tàu, đánh cảng, hoạt động ở vùng cửa biển, chưa bao giờ đánh đảo. Địa bàn Trường Sa rộng lớn, chưa thông thuộc địa hình, không thể trinh sát trước, đặc công muốn đánh thì mắt phải thấy, tai phải nghe, tay phải sờ, chân phải đến. Phương án được thống nhất là không đánh đồng loạt vì lực lượng mỏng và không có quân dự bị, mà đánh và rút kinh nghiệm ở đảo đầu tiên giải phóng được rồi phát triển ra các đảo khác, trinh sát đến đâu, đánh đến đó.

Ngày 9/4/1975, Cục Quân báo phát hiện chính quyền Sài Gòn bắt đầu rút quân khỏi các đảo. Quân ủy Trung ương lập tức gửi điện tối khẩn cho các đồng chí Võ Chí Công, Chu Huy Mân và Hoàng Hữu Thái. "Các anh cho kiểm tra lại ngay và chỉ thị cho lực lượng hành động kịp thời theo phương án đã định. Nếu để chậm có thể quân nước ngoài chiếm trước, vì hiện nay một số nước đang có ý đồ xâm chiếm", nội dung bức điện nêu. Cùng thời điểm này trên đất liền, các cánh quân lớn đang hành quân thần tốc tiến vào thị xã Xuân Lộc, chọc thủng tuyến phòng ngự cuối cùng của cửa ngõ phía Đông Sài Gòn.

Một ngày sau, các tàu vận tải 673, 674, 675 của Quân chủng Hải quân cải trang thành tàu đánh cá nước ngoài, chở theo các chiến sĩ đặc công rời quân cảng Đà Nẵng tiến về Trường Sa. Sau 3 ngày lênh đênh, đoàn tàu đến nơi, cách Song Tử Tây vài km vờ đánh cá để trinh sát tình hình.

Trong các đảo ở Trường Sa mà quân đội Việt Nam Cộng hòa chiếm giữ, Nam Yết là mạnh nhất, có sở chỉ huy chung và khoảng 60 binh sĩ; Song Tử Tây có khoảng 40 và mỗi đảo còn lại khoảng 20 người, được trang bị vũ khí bộ binh, cối... Hạn chế lớn nhất của đội quân đóng giữ ở đây là lực lượng mỏng, khả năng ứng cứu từ đất liền ra hoặc giữa các đảo với nhau không dễ dàng, tinh thần hoang mang do thất bại liên tiếp từ đất liền. Bên cạnh đó, Quân chủng Hải quân chọn đánh Song Tử Tây trước vì đây là chỗ yếu nhất và để thăm dò phản ứng của đối phương, làm bàn đạp tấn công các đảo còn lại.

giai-phong-truong-sa-1
Bộ đội đặc công trên đảo Trường Sa năm 1975. Ảnh tư liệu.

Từ sau những ngày giải phóng đảo Song Tử Tây 14-4, trên các chiến trường, tốc độ tiến quân của ta càng nhanh, càng mạnh, địch bị thất bại nghiêm trọng. Thừa thắng xông tới, các lực lượng của Đội 1 Đoàn 126 Đặc công Hải quân và một đơn vị của Quân khu 5 tiếp tục được lệnh đi giải phóng các đảo còn lại. Với trí thông minh, lòng dũng cảm, lực lượng ta liên tục chiến đấu và chiến thắng giòn giã. 3 giờ sáng ngày 25-4 ta giải phóng đảo Sơn Ca. 10 giờ 30 phút ngày 27-4 ta làm chủ đảo Nam Yết. 10 giờ 30 phút ngày 28-4 ta tiếp tục làm chủ đảo Sinh Tồn. 9 giờ sáng ngày 29-4, phân đội chiến đấu cuối cùng của Trung đoàn 126 trong chiến dịch đã hoàn thành công tác đổ bộ chiến đấu và hoàn toàn làm chủ đảo Trường Sa Lớn; đồng thời kết thúc nhiệm vụ chiến đấu đặc biệt quan trọng của Quân ủy Trung ương giao cho Quân chủng Hải quân.

"Đúng như anh Văn nhận định, sáng 29/4, một số tàu lạ tiến vào gần các đảo, khi nhìn thấy cờ của quân giải phóng thì quay đầu bỏ đi. Nếu chúng tôi chậm vài tiếng đồng hồ trong việc làm chủ, tình hình sẽ phức tạp hơn", Thiếu tướng Mai Năng kể lại và cho hay đây là trận đánh lớn có ý nghĩa nhất với lực lượng đặc công khi góp phần giải phóng một vùng lãnh hải lớn, tạo nên tuyến phòng thủ đất nước từ xa. Những bài học kinh nghiệm rút ra từ chiến thắng này vẫn nguyên giá trị và tính thời sự trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo hôm nay.

Chiến thắng giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa thể hiện việc quán triệt, chấp hành nghiêm chỉnh quyết tâm và tư tưởng chỉ đạo của trên về nhiệm vụ giải phóng đảo. Đây là một chiến thắng có ý nghĩa chiến lược, góp phần vào chiến thắng vĩ đại của toàn dân tộc ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 lịch sử. Chiến thắng một lần nữa chứng minh sự thành công của Bộ Tư lệnh Hải quân trong việc chỉ đạo xây dựng và chiến đấu của lực lượng vận tải chiến lược và lực lượng Đặc công Hải quân.

Cựu binh Lê Xuân Phát (SN1952, quê gốc ở xã Hoằng Sơn, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa; nay sống tại phường Quán Toan, quận Hồng Bàng, TP. Hải Phòng ) chính là người cắm ngọn cờ giải phóng đảo Song Tử Tây. Ông nhập ngũ năm 1972. Là người nhanh nhẹn, khỏe mạnh, trung thực, lại thạo về sông nước, bơi lội như rái cá, nên đã chuyển sang đào tạo đặc công nước.Với ông, những câu chuyện về thời gian chiến đấu năm xưa vẫn luôn trong trí não và cả trái tim. Ông từng chia sẻ: “Tôi không sợ hy sinh, trái lại tôi thấy vô cùng vinh dự, tự hào vì được giao nhiệm vụ kéo cờ giải phóng trên đảo. Đó là nhiệm vụ vinh quang, khó khăn nào tôi cũng hết sức vượt qua để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Thế nên trong đầu tôi chỉ tâm niệm một điều là phải kéo được cờ lên…”.

giai-phong-truong-sa-3
Nhà tưởng niệm Bác Hồ ở Trường Sa

            Trong một cuộc tiếp xúc với báo chí, Thiếu tướng Mai Năng – người trực tiếp chỉ huy chiến đấu giải phóng Trường Sa đã bày tỏ: “Chúng tôi vô cùng xúc động và tự hào khi nhìn lá cờ giải phóng tung bay trên nhiều đảo ở quần đảo Trường Sa, lòng cảm phục tài năng và tầm nhìn chiến lược quân sự của Đại tướng Võ Nguyên Giáp – vị tướng huyền thoại”.

          Đến nay, tình hình biển đảo của nước ta vẫn có những biến động đòi hỏi lực lượng Hải quân luôn nâng cao tinh thần cảnh giác, chủ động trong mọi tình huống có thể xảy ra. Và ở nơi đó, hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, hình ảnh anh Văn – vị Tổng Tư lệnh vẫn luôn ở trong mỗi trái tim của từng người lính, từng người dân. Đây chính là điểm tựa tinh thần vô cùng mạnh mẽ, giúp họ vượt qua những khó khăn, thiếu thốn, quyết tâm chiến đấu vì độc lập, vì chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước./.

Thanh Huyền (Tổng hợp)

Bài viết khác: