Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội nhân dân tiếp tục phát huy tinh thần và ý chí quyết thắng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, tăng cường đoàn kết, thống nhất, chủ động, sáng tạo, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao; tổ chức thành công đại hội đảng các cấp, Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ X, tiến tới Đại hội XII của Đảng, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Cách đây đúng 40 năm, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 của quân và dân ta, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đánh giá về tầm vóc và ý nghĩa của sự kiện lịch sử đó, Đại hội IV của Đảng khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang sử chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và tính thời đại sâu sắc”(1).

Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước phản ánh nghị lực phi thường, tinh thần quyết thắng giặc Mỹ xâm lược cao độ và ý chí thống nhất Tổ quốc không gì lay chuyển nổi của dân tộc Việt Nam. Thắng lợi đó là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc, mở ra một kỷ nguyên mới đối với nước ta - kỷ nguyên độc lập, thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Biểu tượng rực rỡ về tinh thần quyết thắng đó, đồng thời cũng là linh hồn của cuộc kháng chiến là Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Có nhiều nguyên nhân làm nên thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước lâu dài, đầy hy sinh, gian khổ, gay go và quyết liệt nhất trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc, trong đó, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định nhất.

Với đường lối kháng chiến độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo và tầm nhìn chiến lược sâu rộng, tư duy khoa học, sắc sảo, Đảng ta đã đánh giá đúng tình hình quốc tế, trong nước, cả thuận lợi, khó khăn, đánh giá so sánh lực lượng ta - địch, nhất là chỗ mạnh của ta và chỗ yếu của địch, trên cơ sở đó, xác định đúng đắn mục tiêu của cách mạng, vận dụng sáng tạo phương pháp cách mạng, phương châm chỉ đạo chiến lược và phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân thích ứng với từng thời kỳ và suốt cuộc kháng chiến để tổ chức và động viên sức mạnh lớn nhất của cả nước, của hai miền Nam - Bắc, của toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để giành thắng lợi cuối cùng. Lãnh đạo cách mạng trong điều kiện đất nước tạm chia làm hai miền, Đảng ta đã giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền, có quan hệ chặt chẽ với nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển, nhằm mục tiêu chung là độc lập, thống nhất Tổ quốc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. Đây là đặc điểm lớn, là nét đặc sắc rất sáng tạo trong sự nghiệp lãnh đạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, kể từ năm 1954 đến năm 1975. Với đường lối đúng đắn đó và quan điểm đoàn kết quốc tế trong sáng, Đảng ta đã tranh thủ được sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn, hiệu quả cả về vật chất và tinh thần của Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa anh em và của nhân loại tiến bộ, đặc biệt là sự đoàn kết, liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung của nhân dân ba nước Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia cho cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhất là từ sau Hội nghị Trung ương 15 (tháng 1-1959), Đảng ta nhất quán thực hiện phương pháp cách mạng bạo lực tổng hợp, gồm lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân, kết hợp đẩy mạnh đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, kết hợp khởi nghĩa của quần chúng với chiến tranh cách mạng, tiến công với nổi dậy, nổi dậy với tiến công một cách chặt chẽ, linh hoạt. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 15 đã đáp ứng kịp thời nguyện vọng tha thiết của đông đảo đồng bào, chiến sĩ miền Nam, phù hợp với tình thế cách mạng, tạo một khí thế mới, động lực mới, thúc đẩy cách mạng miền Nam vững bước tiến lên. Bắt đầu từ phong trào Đồng Khởi, sau đó nhanh chóng phát triển thành cao trào Đồng Khởi ở các tỉnh Nam Bộ (1959 - 1960). Thắng lợi của phong trào Đồng Khởi đã làm xoay chuyển tình thế, tạo bước ngoặt quyết định, đưa cách mạng miền Nam chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công mạnh mẽ, liên tục, rộng khắp, tạo tiền đề cho chúng ta đẩy mạnh cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và tay sai.

Thực hiện triệt để phương pháp cách mạng bạo lực, Đảng ta đã phát huy có hiệu quả sự kết hợp giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao; đánh địch bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị và binh vận; trên cả ba vùng chiến lược: rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị; kết hợp ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và du kích; kết hợp chặt chẽ chiến tranh chính quy của các binh đoàn chủ lực với chiến tranh nhân dân địa phương của các lực lượng vũ trang địa phương; kết hợp cả đánh lớn, đánh vừa và đánh nhỏ; làm chủ với tiến công, tiến công với làm chủ.

Nét đặc sắc trong nghệ thuật chỉ đạo, tổ chức cuộc kháng chiến của Đảng ta còn được thể hiện ở chỗ, luôn quán triệt và kiên trì thực hiện tư tưởng chiến lược tiến công. Về hình thức tác chiến, có thể trong những thời điểm cụ thể có sự đan xen của cả hoạt động tác chiến tiến công, phòng thủ và phòng ngự, nhưng xét về tư tưởng chỉ đạo thì luôn nhất quán tư tưởng chiến lược tiến công. Tư tưởng chiến lược tiến công được thực hiện triệt để trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, không chỉ trong lúc địch “xuống thang” mà ngay cả khi địch “leo thang” chiến tranh; được thực hiện không chỉ đối với chiến tranh cách mạng ở miền Nam - tuyến đầu chống Mỹ - mà còn cả trong công cuộc xây dựng, chiến đấu bảo vệ hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa, nhờ đó quân và dân ta đã chủ động tiến công địch và giành thắng lợi. Trong đó, điển hình là thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, cuộc Tổng tiến công chiến lược năm 1971, 1972 ở miền Nam và thắng lợi của cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ ở miền Bắc, đỉnh cao là đánh bại cuộc tập kích đường không chiến lược (chủ yếu bằng máy bay B.52) cuối năm 1972 trên bầu trời miền Bắc. Với việc quán triệt sâu sắc và thực hiện triệt để tư tưởng chiến lược tiến công, giữ vững thế tiến công, liên tục tiến công, chúng ta càng đánh càng mạnh, càng thắng lớn, lần lượt đánh bại các chiến lược “chiến tranh đặc biệt” (1961 - 1965), “chiến tranh cục bộ” (1965 - 1968) và “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969 - 1973) của đế quốc Mỹ; hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước với hai giai đoạn chiến lược cơ bản: “đánh cho Mỹ cút” (năm 1973) và tiến tới “đánh cho ngụy nhào”, giành thắng lợi hoàn toàn vào mùa Xuân năm 1975.

Thực hiện đường lối quân sự độc lập, tự chủ hết sức đúng đắn, sáng tạo và với tài thao lược xuất sắc của mình, trên cơ sở kế thừa truyền thống quân sự của dân tộc, những kinh nghiệm quý báu trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng ta đã phát triển nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân đạt đến đỉnh cao trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhất là trong giai đoạn cuối cuộc kháng chiến, điển hình là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Đó là nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam độc đáo, sáng tạo được kết hợp chặt chẽ bởi các nhân tố “thế, lực, thời, mưu”, “lấy nhỏ thắng lớn”, “lấy yếu chống mạnh, ít địch nhiều”, thể hiện sâu sắc quan điểm, tư tưởng, nghệ thuật quân sự cơ bản, cách đánh địch độc đáo của tổ tiên ta mà tính hiệu quả của nó đã được khẳng định trong lịch sử giữ nước của dân tộc, các cuộc chiến tranh cứu nước của nhân dân ta. Đó là nghệ thuật tổ chức lực lượng phù hợp, bố trí thế trận liên hoàn, vững chắc, chuyển hóa thế trận linh hoạt ở cả phạm vi chiến thuật, chiến dịch, chiến lược. Đó là nghệ thuật đánh địch bằng hai lực lượng, ba thứ quân, trên ba vùng chiến lược - một trong những nét sáng tạo đặc sắc của đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng ta và trở thành quy luật giành thắng lợi trong chiến tranh cách mạng Việt Nam. Đó còn là nghệ thuật tạo thời cơ, nắm và tận dụng thời cơ để tổ chức những chiến dịch quy mô lớn, có ý nghĩa chiến lược, kết hợp chặt chẽ giữa tiến công bằng tác chiến hiệp đồng quân binh chủng của các binh đoàn chủ lực để tiêu diệt lớn quân địch với nổi dậy của quần chúng rộng khắp, với lực lượng vũ trang địa phương làm nòng cốt để giành chính quyền, gây hoang mang tột độ và làm tan rã lực lượng địch, tiến tới đánh bại toàn bộ quân địch, giành thắng lợi hoàn toàn và triệt để trong thời gian ngắn nhất, có lợi nhất.

Năm 1974, quán triệt tinh thần Hội nghị Trung ương 21 khóa III (từ ngày 6 đến ngày 18-9-1973), quân và dân ta đã đẩy mạnh các hoạt động tiến công địch trên khắp các chiến trường, thu hẹp vùng kiểm soát của chúng, đẩy chúng dần vào thế phòng ngự bị động, tạo bước ngoặt quan trọng cả về thế và lực đối với chiến tranh cách mạng ở miền Nam. Đặc biệt, chiến thắng Thượng Đức, Đồng Xoài (cuối năm 1974), nhất là thắng lợi của Chiến dịch Đường 14 - Phước Long (cuối năm 1974, đầu năm 1975) đã tạo cơ sở để Ban Chấp hành Trung ương Đảng khẳng định điều kiện giải phóng miền Nam đang chín muồi. Từ tháng 10-1974 đến tháng 1-1975, Bộ Chính trị đã tiến hành nhiều hội nghị quan trọng, có sự tham gia của các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy trực tiếp tại các chiến trường miền Nam. Sau khi nghe Bộ Tổng Tham mưu báo cáo tình hình chiến trường, kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam, Bộ Chính trị đã tập trung thảo luận, đánh giá về tình hình, so sánh lực lượng, về thời cơ chiến lược và khả năng can thiệp của đế quốc Mỹ,..., đồng thời thống nhất nhận định: “Lúc này chúng ta đang có thời cơ. Hai mươi năm chiến đấu mới tạo được thời cơ này”(2), cần phải kịp thời nắm lấy, không được để lỡ. Bộ Chính trị nêu quyết tâm chiến lược: Động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, trong thời gian 1975 - 1976, đẩy mạnh đấu tranh quân sự, chính trị, kết hợp với đấu tranh ngoại giao, làm thay đổi nhanh chóng và toàn diện so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam theo hướng có lợi cho ta. Tiến hành khẩn trương và hoàn thành mọi mặt công tác chuẩn bị, tạo điều kiện chín muồi tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa tiêu diệt và làm tan rã quân đội Sài Gòn, đánh đổ chính quyền Sài Gòn từ Trung ương đến địa phương, giành chính quyền về tay nhân dân. Quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị được thể hiện trong kế hoạch chiến lược hai năm 1975 - 1976; trong kế hoạch năm 1975, có dự kiến phương án: Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975, thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975. Thực tế đã diễn ra đúng như Đảng dự kiến.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 của quân và dân ta diễn ra trong vòng gần hai tháng (từ ngày 4-3 đến ngày 2-5-1975), với tốc độ “một ngày bằng 20 năm”, gồm ba đòn tiến công chiến lược lớn là: Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Huế - Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Sau thắng lợi quyết định của Chiến dịch Tây Nguyên và Chiến dịch Huế - Đà Nẵng, Bộ Chính trị khẳng định: “Thời cơ chiến lược đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam”(3), từ đó quyết định mở Chiến dịch Hồ Chí Minh. Trận quyết chiến chiến lược diễn ra từ ngày 26-4 đến ngày 30-4-1975 đã giành toàn thắng, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kéo dài 21 năm đầy hy sinh, gian khổ, nhưng rất đỗi vẻ vang của quân và dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Với thắng lợi vĩ đại đó, nhân dân ta đã thực hiện trọn vẹn Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh - giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Và, trong không khí tưng bừng của ngày Đại thắng, đồng bào và chiến sĩ cả nước như thấy có bóng Bác kính yêu. Từ đây, nước ta bước vào kỷ nguyên mới: độc lập, thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

*

*       *

Bốn mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Đại thắng “30-4-1975”, nhưng tinh thần quyết thắng, ý chí và khát vọng chảy bỏng thống nhất Tổ quốc của dân tộc Việt Nam được thể hiện trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, cũng như toàn bộ sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vẫn còn nguyên giá trị. Bài học quý báu đó cần được tiếp tục phát huy trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc, củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Quân đội nhân dân trong thời kỳ mới.

Trong thời gian tới, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng tình hình tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố gây mất ổn định, bất trắc, khó lường. Chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, tranh chấp tài nguyên, chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai, khủng bố tiếp tục gia tăng. Cục diện thế giới đa cực hình thành ngày càng rõ hơn. Các nước lớn vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cạnh tranh, kiềm chế lẫn nhau, chi phối các quan hệ quốc tế. Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á, là khu vực phát triển năng động nhất thế giới, nơi cạnh tranh quyết liệt giữa các nước lớn; tuy ít có khả năng xảy ra chiến tranh, xung đột lớn, nhưng tranh chấp lãnh thố, biển, đảo diễn biến phức tạp, khó lường. Đối với nước ta, các thế lực thù địch tăng cường hoạt động chống phá về chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hoá, về dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo; tuyên truyền, kích động, thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình” nhằm làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong bối cảnh đó, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta rất nặng nề, có cả thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức đan xen.

Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, điều quan trọng trước hết là phải luôn tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định đường lối, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của đất nước, đồng thời thường xuyên nêu cao cảnh giác, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá, xâm lược của các thế lực thù địch, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Đây là bài học kinh nghiệm quý về đường lối cách mạng, về sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng - nhân tố quyết định thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Theo đó, chúng ta phải tuyệt đối vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, chấp hành nghiêm túc các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhất là những chủ trương, chính sách về tăng cường quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, phải tiếp tục quán triệt, thực hiện tốt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, trong đó phải thấu suốt và nắm vững mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo, nhiệm vụ và giải pháp bảo vệ Tổ quốc mà Nghị quyết đã xác định, để từ đó tạo cơ sở cho việc tổ chức thực hiện thắng lợi Nghị quyết trong thực tiễn.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân phải kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, kế thừa bài học về phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trước đây để vận dụng sáng tạo, phù hợp với điều kiện cụ thể của tình hình quốc tế và trong nước hiện nay. Trong đó, lấy phát huy nội lực là chính, kết hợp với ngoại lực và sự ủng hộ từ bên ngoài thông qua hợp tác quốc tế, nhằm không ngừng tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc, theo quan điểm của Đảng ta, là sức mạnh tổng hợp của đất nước về chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Do đó, cần phải nỗ lực xây dựng sức mạnh tổng hợp được cấu thành bởi các tiềm lực trên tất cả các lĩnh vực, đồng thời kết hợp chặt chẽ các nhiệm vụ, nắm chắc nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên; đẩy mạnh xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững mạnh, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, chúng ta cần quán triệt đường lối độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế theo tinh thần Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị, khóa XI và Nghị quyết số 806-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương về “Hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo”. Trên cơ sở thấu suốt chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước, tích cực mở rộng quan hệ, hợp tác, tạo thế đan xen lợi ích chiến lược giữa nước ta với các nước, nhất là các nước lớn, các đối tác chiến lược, các nước láng giềng và các nước trong khu vực. Trong quá trình mở rộng quan hệ, hợp tác quốc tế, cần quán triệt phương châm: Kiên định mục tiêu, nguyên tắc chiến lược, linh hoạt, mềm dẻo và sách lược; thêm bạn, bớt thù, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, tránh xung đột, đối đầu và tránh bị cô lập, phụ thuộc. Đồng thời, phải nhận thức và vận dụng đúng đắn về đối tác, đối tượng, nhất là tính chất đan xen phức tạp và sự chuyển hóa giữa đối tác, đối tượng theo quan điểm của Đảng, nhằm bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc, tăng cường thế và lực của đất nước, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững.

Bảo vệ Tổ quốc là một trong hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, là trách nhiệm chính trị của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, của cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân giữ vai trò nòng cốt. Để bảo đảm cho Quân đội nhân dân hoàn thành trọng trách đó, cần tiếp tục đẩy mạnh xây dựng Quân đội “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại” theo phương hướng Đại hội XI của Đảng đã đề ra. Việc xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh về mọi mặt, có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao là xuất phát từ yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đồng thời còn là sự kế thừa kinh nghiệm về xây dựng lực lượng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, nhất là trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Như chúng ta đã biết, trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến (năm 1973, 1974), nhờ chủ động xây dựng các binh đoàn chủ lực (các quân đoàn 1, 2, 3, 4) và các binh chủng kỹ thuật hiện đại, nên ta có điều kiện để tổ chức các chiến dịch tiến công quy mô lớn mang ý nghĩa chiến lược, thực hiện những đòn đánh mạnh tiêu diệt lớn quân địch, bằng tác chiến hiệp đồng quân binh chủng, giành thắng lợi quyết định, trong đó cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa năm Xuân 1975 là minh chứng điển hình. Trong những năm qua, được sự quan tâm, đầu tư của Đảng, Nhà nước, sự đồng thuận của toàn quân, toàn dân, việc xây dựng Quân đội “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại” đạt được những kết quả quan trọng. Trước hết, tập trung xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, tạo cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu. Các đơn vị trong toàn quân tích cực triển khai Đề án “Đổi mới công tác giáo dục chính trị ở đơn vị trong giai đoạn mới”, gắn với thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XI về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng và cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh bộ đội Cụ Hồ”; qua đó, tạo chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng chính trị, nâng cao bản lĩnh chính trị, định hướng tư tưởng cho bộ đội, trở thành nguồn động lực tinh thần to lớn để hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ được giao. Công tác xây dựng Đảng được coi trọng đúng với vị trí, vai trò là mặt công tác then chốt xuyên suốt hoạt động lãnh đạo của Đảng; nhờ đó, đã không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng trong Đảng bộ Quân đội. Chấp hành nghiêm túc sự chỉ đạo Quân ủy Trung ương và của Bộ Quốc phòng về tổ chức lực lượng, cấp ủy, chỉ huy các cấp đã triển khai quyết liệt, đồng bộ kiện toàn tổ chức biên chế lực lượng theo hướng “tinh, gọn, mạnh”, có cơ cấu thành phần hợp lý, số lượng phù hợp, chất lượng cao, bảo đảm khả năng sẵn sàng chiến đấu của Quân đội trong tình hình mới.

Cùng với đó, các mặt công tác khác, như công tác tổ chức biên chế, xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, giáo dục - đào tạo, hậu cần - kỹ thuật,... được các cơ quan, đơn vị trong toàn quân thường xuyên quan tâm thực hiện, có nhiều chuyển biến tích cực.

Xét về tổng thể, Quân đội được xây dựng theo hướng từng bước hiện đại. Song, với sự nỗ lực rất lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, trong thời gian qua, một số lực lượng, như hải quân, phòng không - không quân, thông tin liên lạc, trinh sát kỹ thuật, tác chiến điện tử đã được đầu tư đáng kể để tiến thẳng lên hiện đại, trước hết là hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật. Trong thời gian tới, cùng với việc tiếp tục đầu tư cho các lực lượng trên, chúng ta sẽ nghiên cứu đầu tư hiện đại hóa từng bước các binh chủng kỹ thuật quan trọng và một số đơn vị chủ lực, nhằm nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội lên một bước mới. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng Quân đội từng bước hiện đại, nhất là đối với các đơn vị đang được đầu tư hiện đại hóa, cần hết sức coi trọng xây dựng con người, giải quyết tốt mối quan hệ giữa con người và vũ khí, trong đó con người là nhân tố quyết định, vũ khí là quan trọng. Vì nếu có vũ khí hiện đại, nhưng bộ đội lại không đủ trình độ khai thác, sử dụng thì cũng không hiệu quả. Bởi vậy, phải luôn chú trọng xây dựng con người toàn diện, phải giáo dục, huấn luyện, đào tạo cho cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, quyết tâm cao, tinh thông nghiệp vụ, làm chủ vũ khí, phương tiện kỹ thuật được biên chế, nhất là vũ khí, phương tiện kỹ thuật hiện đại mới được trang bị. Đó là tiền đề quan trọng bảo đảm cho Quân đội nhân dân vững mạnh về mọi mặt, hoàn thành tốt chức năng “đội quân chiến đấu, quân đội công tác, đội quân lao động sản xuất”, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, tích cực giúp nhân dân phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ và tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, góp phần nâng cao uy tín, vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Cùng với xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh toàn diện, cần tiếp tục xây dựng lực lượng dân quân, tự vệ “vững, mạnh, rộng, khắp”, xây dựng lực lượng dự bị động viên “vững mạnh, hùng hậu”, nhằm góp phần bảo đảm cho lực lượng vũ trang nhân dân luôn xứng đáng và hoàn thành tốt vai trò nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc./.

---------------------------------------------

(1) Văn kiện Đảng: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t. 37, tr. 471

(2) Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 - 1975, Tập VIII - Toàn thắng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013, tr. 208

(3) Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sđd, Tập IX - Tính chất, đặc điểm, tầm vóc và bài học lịch sử, tr. 56

Phùng Quang Thanh

Đại tướng, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng

Theo tạp chí Tuyên giáo

Đức Lâm (st)

Bài viết khác: