Hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giai đoạn 1954 - 1975 đã góp phần hoàn thành tốt hai nhiệm vụ lịch sử là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tìm hiểu hệ thống chính trị thời kỳ này và rút ra được những bài học kinh nghiệm quý báu cho công cuộc đổi mới hệ thống chính trị hiện nay là việc làm hết sức cần thiết.
Một số ưu điểm của hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giai đoạn 1954 - 1975 trong tổ chức và hoạt động
Thứ nhất, mô hình chính trị và hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thời kỳ này rất có tác dụng trong chiến tranh. Với chế độ công hữu và quản lý tập trung kế hoạch hóa, với hệ thống chính trị thống nhất tập trung quyền lực đã tập trung mọi nguồn lực của đất nước, huy động tối đa sức người, sức của cho chiến trường, “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” tất cả cho tiền tuyến, cho chiến thắng. Có thể nói, đây là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc chiến tranh chống Mỹ của toàn Đảng, toàn dân, toàn Quân.
Thứ hai, so với giai đoạn trước, hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giai đoạn 1954 - 1975 có nhiều thay đổi, tiếp tục được củng cố, kiện toàn từ trung ương đến địa phương, từ thể chế đảng, thể chế nhà nước đến thể chế Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội. Đặc biệt, giai đoạn này, nguyên tắc tổ chức nhà nước, nguyên tắc hoạt động và mối quan hệ giữa các cơ quan cũng bước đầu được xác định rõ ràng, cụ thể hơn.
Thứ ba, giai đoạn này, Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội đóng vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị, trong việc tập hợp lực lượng, phát huy sức mạnh của toàn dân, toàn quân. Mặt trận và các tổ chức đã có những hình thức rất linh hoạt và phong phú. Mỗi đối tượng nhân dân đều có những đặc điểm riêng, có những lợi ích riêng. Do đó, thời kỳ này đã có nhiều tổ chức ra đời, nhiều phong trào được phát động phù hợp với từng đối tượng cụ thể: Có tổ chức cho thanh niên, có tổ chức cho nông dân, công nhân, có tổ chức cho phụ nữ, có tổ chức cho các tôn giáo… Sự đa dạng khiến cho các tầng lớp nhân dân, các thành phần xã hội đều tham gia trong một tổ chức nhất định và đều cảm thấy được đóng góp cho sự nghiệp chung của Tổ quốc. Đây chính là nguyên nhân giúp cho Mặt trận và các tổ chức trở thành nơi quy tụ lực lượng cho cách mạng, tạo khối đại đoàn kết toàn dân.
Một số hạn chế của hệ thống chính trị Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giai đoạn 1954 - 1975 trong tổ chức và hoạt động
Thứ nhất, hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thời kỳ 1954 - 1975 là hệ thống chính trị có đỉnh quyền lực, tập trung quyền lực vào Đảng. Đây là mô hình có tác dụng to lớn trong thời kỳ chiến tranh, giúp cho hệ thống chính trị hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử của mình. Tuy nhiên, bên cạnh đó, nó cũng bộc lộ một số nhược điểm. Sự tập trung quyền lực cao độ, tuyệt đối hóa vai trò lãnh đạo của Đảng dẫn đến quyền tự do, dân chủ của nhân dân bị hạn chế. Trong điều kiện hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh, ý thức pháp quyền của nhân dân chưa cao, tình trạng tổ chức đảng bao biện, làm thay chính quyền nhà nước diễn ra khá phổ biến ở các cấp chính quyền cả trung ương và địa phương.
Đặc biệt, xét từ góc độ chính trị học, từ cách tiếp cận của vấn đề tổ chức, kiểm soát quyền lực thì mô hình này lại thiếu cơ chế cân bằng, kiểm soát. Sự phân công giữa các chủ thể quyền lực không rõ ràng dẫn đến sự lấn sân, chồng chéo trong hoạt động. Tuy có nêu ra quan điểm Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ nhưng không có sự chế định bằng những thể chế và dĩ nhiên là trong hệ thống này, không thể có sự phân công và kiểm soát quyền lực. Đây là nhược điểm khiến hệ thống chính trị không thể tự thích ứng và tự điều chỉnh trong hoàn cảnh mới. Đồng thời, đây là môi trường khách quan, nảy sinh nạn quan liêu, tham nhũng, tha hóa quyền lực, lạm quyền, độc quyền.
Thứ hai, hệ thống chính trị mang tính đồng nhất, ít sự khác biệt. Ở cả trung ương và địa phương, hệ thống Đảng - Nhà nước - Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đều cùng tồn tại với phương thức và cơ chế vận hành như nhau. Mặc dù Hiến pháp năm 1959 không có những điều khoản, chương mục quy định về vai trò của Đảng Cộng sản và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị song sự vận động thực tiễn của nền kinh tế dựa trên chế độ công hữu và kế hoạch hóa tập trung tất yếu dẫn đến hình thành thể chế chính trị tập trung quan liêu, từng bước hình thành hệ thống tổ chức Đảng song trùng với hệ thống tổ chức Nhà nước, Đảng trên Nhà nước, trực tiếp chỉ huy Nhà nước. Mọi quyết sách chính trị đều do các cấp ủy Đảng trực tiếp quyết định, những quyết định của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp mang tính hình thức, Chính phủ và chính quyền các cấp chỉ là cánh tay kéo dài của Đảng. Đảng ra nghị quyết, rồi cả Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị cùng triển khai thực hiện. Tổ chức và hoạt động đều mang tính chất hành chính: hành chính Đảng, hành chính Nhà nước và hành chính đoàn thể.
Thứ ba, mặc dù đã có những bước tiến vượt bậc trong việc ban hành các văn bản, các chính sách pháp luật, quy định về cơ chế hoạt động của các tổ chức, quy định về cách thức tổ chức, quản lý các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội nhưng do điều kiện của chiến tranh, của thực tiễn lịch sử, nhiều vấn đề vẫn chưa được chế định rõ ràng. Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, ý thức và trình độ nhận thức của nhân dân chưa cao.
Trong quá trình hoạt động, hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng đã mắc những sai lầm. Cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức đã gây ra những tổn thất không nhỏ và để lại những vết thương lâu lành trong tư tưởng, tình cảm của cán bộ, quần chúng. Việc đồng nhất cải tạo xã hội chủ nghĩa với xóa bỏ tràn lan các thành phần kinh tế tư nhân, đồng nhất hợp tác hóa với tập thể hóa, đầu tư bất hợp lý cho công nghiệp nặng,… đã cản trở không ít bước phát triển lâu dài của nền kinh tế. Những sai lầm bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó nguyên nhân là do có nhận thức đơn giản, ấu trĩ về chủ nghĩa xã hội và nhận thức giáo điều về đấu tranh giai cấp, về chuyên chính vô sản.
Đầu những năm 60 của thế kỷ trước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sức mạnh của dân tộc mới được giải phóng đã được khơi dậy, tạo những biến đổi cách mạng về đất nước, xã hội và con người ở miền Bắc. Nhờ sự tác động tích cực, hiệu quả của hoạt động thực tiễn đối với tư duy lý luận, tạo sự cân bằng và thống nhất giữa lý luận - thực tiễn mà hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vượt qua được những nguy cơ, sai lầm và ngày càng có sức mạnh để đi đến thắng lợi cuối cùng vào năm 1975.
Một số bài học kinh nghiệm
Thứ nhất, mặc dù khó khăn gian khổ, nhưng cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước đã giành thắng lợi. Để đạt được thắng lợi đó, bên cạnh sự đồng tâm, đồng lòng của nhân dân cả nước, vai trò lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam mang tính chất quyết định. Với nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện, trực tiếp, với sự nhạy cảm chính trị và ứng biến kịp thời với hoàn cảnh, Đảng đã đề ra những đường lối, chủ trương cách mạng thực sự đúng đắn. Thông qua những thành tựu trong xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, qua đội ngũ đảng viên ưu tú, xuất sắc, một lòng vì dân, vì nước, uy tín của Đảng ngày được nâng cao và thu hút, tập hợp đông đảo, rộng rãi quần chúng nhân dân tham gia lực lượng cách mạng. Do đó, giương cao ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, khẳng định vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng là một bài học kinh nghiệm quý báu cho việc tổ chức và vận hành hệ thống chính trị Việt Nam.
Ngay từ khi nắm chính quyền, vai trò lãnh đạo của Đảng được khẳng định là một nguyên tắc hoạt động cơ bản, là trụ cột của cơ chế vận hành hệ thống chính trị, là điều kiện bảo đảm quyền lực chính trị thuộc về nhân dân. Kể từ năm 1980 đến nay, vai trò lãnh đạo của Đảng được chính thức khẳng định về mặt pháp lý tại Điều 4 Hiến pháp. Tuy nhiên, trong quá trình thảo luận để sửa đổi Hiến pháp vào năm 2013, có một số ý kiến cho rằng nên bỏ Điều 4, thực hiện đa nguyên chính trị. Đây là thủ đoạn truất quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản, dẫn đến việc thay đổi thể chế, thay đổi chế độ chính trị. Một bài học nhãn tiền là trường hợp của Liên Xô khi tiến hành cải tổ. Từ bài học của Liên Xô, từ kinh nghiệm lịch sử của hệ thống chính trị Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giai đoạn 1954 - 1975, việc khẳng định vị trí, vai trò và nâng cao năng lực, sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn hiện nay càng trở nên cấp thiết.
Thứ hai, hệ thống chính trị Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giai đoạn 1954 -1975 là hệ thống chính trị đa đảng, nhất nguyên, còn hiện nay là hệ thống chính trị một đảng. Dù là đa đảng hay một đảng thì mô hình chung vẫn là mô hình có đỉnh quyền lực và yếu về cơ chế cân bằng, kiểm soát quyền lực. Vì vậy, cần phải thiết kế lại bảo đảm cho hệ thống chính trị vừa tập trung quyền lực, vừa phân công và kiểm soát quyền lực, bảo đảm cho hệ thống chính trị có khả năng tự điều chỉnh, tự thích ứng khi điều kiện thay đổi. Dĩ nhiên, ở nước ta không phân quyền, vì đó là quyền lực của nhân dân, cần có sự phân công rõ ràng và kiểm soát lẫn nhau giữa các bộ phận trong hệ thống để thực hiện. Cần thực hiện kiểm soát quyền lực trong nội bộ Đảng, trong bộ máy nhà nước giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, kiểm soát giữa Đảng với Nhà nước và với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Cùng với tự kiểm soát của hệ thống chính trị, phải thực hiện sự kiểm soát của nhân dân. Nhân dân là chủ thể của quyền lực, nhưng nhân dân không chỉ trực tiếp thực hiện mà thông qua ủy quyền. Bản chất của quyền lực là sự tha hóa, do đó khi được ủy quyền thì người nắm giữ quyền lực sẽ dễ lợi dụng để mưu lợi cho bản thân. Nếu nhân dân thụ động, thiếu trách nhiệm, trình độ nhận thức và năng lực chính trị thấp sẽ khiến cho sự lạm quyền, chuyên quyền phát triển, lộng hành. Vì vậy, công tác giáo dục tư tưởng, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức trách nhiệm, ý thức công dân cho mọi người có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Thứ ba, một bài học quan trọng được rút ra từ cách thức tổ chức hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thời kỳ 1954 - 1975 là tổ chức Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể nhân dân. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội giai đoạn 1954 - 1975 đã có rất nhiều hình thức đa dạng, đưa ra những lợi ích thiết thực với từng đối tượng và thu hút được nhiều thành phần, giai cấp, tầng lớp, lứa tuổi,… tham gia. Bên cạnh đó, Mặt trận và các tổ chức hoạt động trên cơ sở tự nguyện, tự chủ, độc lập về kinh tế và chi phí nên có tiếng nói trong hệ thống chính trị, thực sự trở thành diễn đàn thể hiện tâm tư, nguyện vọng của dân, do dân, vì dân. Đây là một kinh nghiệm quý cho việc tổ chức Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội hiện nay.
Trong thời kỳ chiến tranh, Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội là một trong những hình thức quan trọng để tập hợp quần chúng, quy tụ lực lượng, phát động và triển khai các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Cho đến nay, đặc biệt là từ Đại hội lần thứ IX của Đảng đã đánh dấu bước chuyển biến nhận thức của Đảng trong việc yêu cầu Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức phản biện các đường lối, chính sách của mình. Quy định này sẽ giúp cho tổ chức phát huy vai trò đại diện cho lợi ích của nhân dân, nhất là những đối tượng chịu ảnh hưởng từ các chính sách có thể phản hồi, lên tiếng, đồng thời làm cho các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước khách quan và khoa học hơn, giảm những thiếu sót, hạn chế trước khi được ban hành.
Thứ tư, khi Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, khóa XI, “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, đã thẳng thắn thừa nhận “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...” thì hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giai đoạn 1954 - 1975 đã để lại bài học kinh nghiệm quý báu về việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, vững mạnh, tạo được niềm tin trong quần chúng nhân dân, đặc biệt với những nhà lãnh đạo. Giai đoạn 1954 -1975, tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo của Đảng ta… là một trong những yếu tố thu hút sự quan tâm của dư luận, vận động và tập hợp lực lượng cách mạng.
Để có được những người lãnh đạo, thủ lĩnh chính trị “vừa hồng vừa chuyên”, cần chú trọng đến tất cả các khâu từ phát hiện và đào tạo cán bộ, tuyển chọn cán bộ, đánh giá cán bộ,… Trong giai đoạn 1954 - 1975, hoàn cảnh thời chiến đã không cho phép chúng ta thực hiện được công việc này một cách căn cơ, thì hiện nay cần quan tâm và thực hiện bài bản, khoa học.
Đối với việc phát hiện và đào tạo cán bộ, cần xác định rõ năng lực và chuyên môn của cán bộ và phân định mục tiêu đào tạo và tuyển lựa để hướng tới hình thành hai loại hình cán bộ: cán bộ hoạt động theo hướng chuyên môn nghiệp vụ và cán bộ hoạt động chính trị chuyên nghiệp, tránh trường hợp cán bộ chuyên môn phải học quá nhiều chính trị, còn cán bộ chính trị lại không được học đầy đủ về nghiệp vụ lãnh đạo chính trị.
Đối với việc đánh giá cán bộ, là công việc tiến hành thường xuyên và liên tục. Qua thời gian hoạt động, các cán bộ sẽ dần bộc lộ những ưu điểm và hạn chế của mình. Đánh giá cán bộ sẽ giúp điều chỉnh được những hành vi sai trái, tạo cơ chế kiểm soát để cán bộ phải luôn cố gắng hoàn thành công việc hiệu quả, đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, tiếp tục nhận được tín nhiệm của nhân dân.
Hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giai đoạn 1954 - 1975 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, sứ mệnh lịch sử. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không phải không có những sai lầm, khuyết điểm. Những thành tựu và hạn chế trong quá trình tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giai đoạn 1954 - 1975 là bài học kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị trong tình hình đất nước và thế giới có nhiều biến động như hiện nay./.
ThS. Nguyễn Thị Kim Hoa/Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
Theo Tạp chí cộng sản điện tử
Tâm Trang (st)