Nhà giáo Ưu tú Hồ Mộ La ở căn hộ cao tầng 96 phố Định Công - Hà Nội. Thời bà là ca sĩ, giảng viên Học viện Âm nhạc Quốc gia thì nhiều người biết. Nhưng chuyện Bác Hồ gửi thư xưng “chú Minh” thì nay bà mới kể.

Chúng tôi ôn chuyện cũ

BAC HO VOI GIA DINH NHA HOI GIAO ANH 1
Nhà giáo ưu tú Hồ Mộ La, nguyên giảng viên Học viện Âm nhạc Quốc gia Hà Nội.

Ngày đó, từ tháng 10-1961 sau Đại hội XXII Đảng Cộng sản Liên Xô đến Hội nghị 81 Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế, Bác phải làm việc nhiều, căng thẳng kéo dài, do nhiều đảng đề nghị Người dùng uy tín lớn lao và kinh nghiệm phong phú làm chỗ dựa hòa giải để các bên xích lại gần nhau. Ông Vũ Kỳ đi phục vụ Bác hồi ấy từng viết nhiều về sự giảm sút sức khỏe của Người bắt đầu từ đây do hết sức lo lắng cho khối đoàn kết trong phe xã hội chủ nghĩa và phong trào cách mạng thế giới, có phần ảnh hưởng đến công cuộc giành độc lập thống nhất đất nước ta.

Những ngày nghỉ hiếm hoi của Bác, ông thường bảo anh em ở Đại sứ quán Việt Nam tại Mát-xcơ-va gọi mấy cháu đang học ở đây như Mộ La vào ăn cơm cho Bác vui. Các bạn Hồng Anh, Châu, Nga… vào bàn ăn, cô nào cũng muốn được ngồi bên Bác, được gắp thức ăn cho Bác – ngon nhất là nem rán, cá kho… do nhà bếp Đại sứ quán nấu thêm hợp khẩu vị đưa vào, Bác bảo: - Bác nhận rồi. Spaxibơ Balsôie! (cảm ơn nhiều). Mọi người cười vui. Bác giơ tay ra hiệu: Trise! (Yên lặng chút). Lại cười rộ. Bác bảo: Nhưng “lộc bất tận hưởng”. Bây giờ “không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng”. Lại cười vang, vỗ tay trong khi Bác đứng lên gắp cho vào bát mỗi người một cái nem.

Cháu nào ngồi cạnh Bác, thành lệ, được giữ hộp thuốc lá của Bác, định giờ đưa Bác một điếu. Có cô thích quá, đưa Bác trước giờ hẹn, Bác phê bình: - Phạm kỷ luật “nhà kho” đấy! Giữ hộp thuốc là để Bác hạn chế hút... Bác cháu lại cùng cười phá lên…

Chúng tôi ôn chuyện cũ mà bùi ngùi, lòng lắng lại, nhớ Bác, đời mình ơn Bác như trời biển.

Một dòng danh gia vọng tộc

Bà Mộ La người nhỏ nhắn, dáng vẫn nhanh nhẹn như ngày nào, rất mẫn tuệ, nhớ nhiều, cách nói khúc chiết, mạch lạc, đúng nghề nhà giáo. Hỏi về thân phụ, bà mong và hẹn có dịp được nói rõ hơn, đúng hơn về cha mình và Bác Hồ với mối quan hệ buổi mở đầu một thời kỳ lịch sử quan trọng. Bà tỏ ý tiếc, ngay cả đến danh tính thân phụ Hồ Học Lãm ở một vài bài viết, cả đến một đường phố ở Vinh trước đây cũng sai chữ lót: Học thành Ngọc. Gia đình phải làm đơn đề nghị sửa lại: Hồ Học Lãm (Học là xem).

Cha bà theo cụ Phan Bội Châu sang Nhật trong phong trào Đông Kinh nghĩa thục từ năm 1906. Đông Du thất bại, cụ Phan giới thiệu ông vào học Trường Sĩ quan Bảo Định - Hà Nam, cùng khóa với Tưởng Giới Thạch. Ông tham gia cuộc cách mạng Tân Hợi – 1911 do Tôn Trung Sơn, lãnh tụ Quốc dân Đảng lãnh đạo. Sau ngày Tổng thống Tôn Trung Sơn qua đời (1925), Tưởng Giới Thạch làm binh biến (1927) thay đổi đường lối chính trị, cha tôi vẫn được nể trọng, được điều công tác về Bộ Tổng Tham mưu tại Nam Kinh – Giang Tô. Gia đình vẫn là điểm hẹn, nơi nuôi dưỡng anh em ăn ở như Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Trịnh Đông Hải…, sau đó là Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Hà Huy Tập, Phùng Chí Kiên… Đây cũng là nơi cung cấp tin tức mỗi khi người của ta bị bắt hoặc bị đe dọa đến tính mạng.

Bà kể: Năm 1936, qua liên lạc với Lê Thiết Hùng là chồng của chị cả Hồ Diệc Lan cùng là đồng môn sĩ quan trong quân đội Quốc dân Đảng với cha tôi, Bác Hồ đề nghị cha đứng ra xin phép lập Việt Nam độc lập Đồng minh Hội (tên tắt Việt Minh) để có danh nghĩa hợp pháp đoàn kết các lực lượng yêu nước trong kiều bào; một mặt cũng là để phân rõ thái độ, chính kiến một số người như Nguyễn Hải Thần, Nghiêm Kế Tổ, Vũ Hồng Khanh, Vi Đăng Tường… (rồi, như đã biết, năm 1941 Bác Hồ thành lập Việt Nam độc lập Đồng minh, cũng gọi tắt là Việt Minh, nhưng là “Mặt trận” dưới sự lãnh đạo của Đảng, nay là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam).

Cha cũng đứng tên đề nghị mở Văn phòng đại diện Việt kiều, làm Chủ nhiệm cơ quan Biện sự xứ tại Quế Lâm, Phó Chủ nhiệm là Lâm Bá Kiệt (Phạm Văn Đồng). Tướng Lý Tế Thâm tuyên bố hoan nghênh nhưng dặn cha: “Không được để cộng sản lợi dụng”…

Vậy là những việc lớn do tổ chức giao: Nuôi dưỡng, bảo vệ cán bộ, làm đặc tình trong hàng ngũ Quốc dân đảng, lập các tổ chức hợp pháp làm vỏ bọc cho cán bộ ta hoạt động và đoàn kết các lực lượng Việt kiều yêu nước… theo chủ trương của Bác Hồ cha đã hoàn thành. Chỉ riêng việc Lê Thiết Hùng gợi ý cha gia nhập Đảng từ những năm đầu 1930, cha từ chối, nói tuổi đã quá cao, sức yếu, để “đứng ngoài” nhưng đoàn thể giao việc gì sẵn sàng hết mình làm trọn việc ấy.

Cha bị suy tim, hen suyễn nặng, mất ngày 12-4-1943, dặn mẹ, chị Diệc Lan thay cha, việc gì đoàn thể giao, làm được thì nhận, làm thật tốt để xứng đáng niềm tin của lãnh tụ, cũng là giữ trọn nền nếp gia phong của dòng tộc họ Hồ.

Thần tượng anh hùng của hai chị em

Vào khoảng tháng 8-1942, cha nhận được thư của Lâm Bá Kiệt thông báo lão đồng chí Hồ Chí Minh mất tích khi qua biên giới, đề nghị giúp đỡ. Cha ốm, mẹ phải bên giường chăm sóc, Mộ La chưa làm gì một mình được. Cha gợi ý mấy cách đi tìm: Gặp bạn bè thân quen đi các nhà tù dò hỏi tên tuổi, hình dáng các chính trị phạm mới bị bắt gần đây; Nhờ các báo tung dư luận đòi nhà cầm quyền Quảng Tây không được bưng bít sự thật, thủ tiêu tù nhân, trả ngay tự do cho ông Hồ Chí Minh vô tội. Chị Diệc Lan chấp bút thay cha trực tiếp đánh thư cho Tưởng Giới Thạch chỉ thị tha bổng cho người bà con họ Hồ bị bắt oan ở nơi nào đấy thuộc tỉnh Quảng Tây...

Không ai biết được những cố gắng của gia đình có kết quả gì không, chỉ biết hơn một năm sau có tin lãnh tụ đã được tha lỏng ở Liễu Châu. Đây là thời gian nhà cầm quyền Quốc dân Đảng đại diện là Tư lệnh Đệ tứ chiến khu tướng Trương Phát Khuê đã sắp sẵn kế hoạch chờ thời cơ sẽ đưa các đảng phái được nuôi dưỡng lâu nay như Việt quốc, Việt cách về nước để thành lập chính quyền thân Tàu. Ấy thế nhưng các vị Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam… thì lại mỗi kẻ một phách, chẳng ai chịu ai. Tư lệnh Trương biết rõ tài năng, uy tín ông Hồ Chí Minh, muốn tận dụng để tập hợp đoàn kết, củng cố và phát triển tổ chức “Việt Nam cách mạng đồng minh hội”, nên khẩn khoản mời Bác làm Phó Chủ tịch – Chủ tịch là Nguyễn Hải Thần. Bác “tương kế tựu kế” vì biết rằng thời cơ giành độc lập đã sắp tới, phải chớp lấy, không thể bỏ lỡ. Người đến làm việc tại phố Ngư Phong để tiếp xúc rộng rãi, liên lạc với các đồng chí trong nước chuẩn bị đón Bác về.

Ba mẹ con bà Khôn Duy lặn lội đến Liễu Châu gặp Bác, thấy Người làm việc công khai, rất được trọng vọng, mẹ con đã đoán ra được mấy phần – cũng như ông nhà: Hoạt động bí mật “vỏ bọc” kín là rất quan trọng. Nhưng thương lắm, người lãnh tụ gầy gò, tiều tụy, mặc bộ đồ Tàu vàng rộng quá cỡ trông càng đau lòng. Mẹ bọc giấu chiếc nhẫn đưa biếu Bác. Bác cảm động từ chối: -Không được, ông nhà mới mất, bà cần nó hơn tôi…

Trở về nhà, mẹ con đem chuyện lãnh tụ ra bàn. Người nói: “Chỉ năm bốn lăm là nước nhà độc lập thôi. Bà và các cháu có muốn về nước thì chuẩn bị đi, cháu Diệc Lan bây giờ muốn về cũng không được. Ở chiến khu rừng núi cực khổ, thiếu thốn lắm…”. Hai chị em chưa nghĩ tới chuyện về nước mà đều sửng sốt, hết sức thán phục, tự hỏi: - Giữa lúc thời thế trong nước, quốc tế đang rất đen tối, chiến tranh đẫm máu ở mọi nơi mà sao lãnh tụ lại tài giỏi đến như vậy – biết trước năm 1945 Việt Nam sẽ giành được độc lập? Thật là nhà tiên tri trác việt!

Lá thư báu vật

Cháu Mộ La.

Đã nhận được thư cháu, Chú cảm ơn. Biết cháu to nậy, mạnh khỏe, tiến bộ, chú mầng. Nhưng cháu viết hơi “văn nghệ” quá, Chú ngại. Ví dụ: Răng không kêu chú là chú Minh, lại kêu bằng “Minh Thúc”. Tiếng ta có, thì nên zùng tiếng ta, như rứa phổ thông hơn, phải không cháu?

Hôn cháu

Chú Minh

BAC HO VOI GIA DINH NHA HOI GIAO ANH 2
Thư Bác Hồ gửi bà Hồ Mộ La năm 1950 (Ảnh do nhân vật cung cấp).

Nhà giáo Mộ La gọi đây là thư Bác Hồ, vật báu của gia đình, tự tay Người gõ máy chữ trên tấm giấy dó nhỏ sản xuất thời chống Pháp, được ép ni-lông, đựng trong cái túi riêng, nay mới “công bố”.

Được hỏi về ngày tháng, xuất xứ của thư, tâm trạng khi nhận thư, bà nhớ lại: Đúng năm 1945 như Bác đã dự báo, sau Cách mạng Tháng Tám, phái đoàn Hà Phú Khương sang Trùng Khánh đón “Hải ngoại quân”: Lính khố xanh, khố đỏ về nước, Bác dặn tìm, đưa cả ba mẹ con bà hồi hương. Tiếc là về nước đúng vào thời gian Bác đi thăm Pháp. Mẹ con về quê Quỳnh Đôi - Quỳnh Lưu - Nghệ An tham gia công tác. Chị Diệc Lan mất năm 1947. Nhớ Bác quá, năm 1950, bà gửi thư lên Bác, cả thư tiếng Trung. Thật bất ngờ, Bác trả lời ngay. Bà thấy xấu hổ quá, ngượng quá, sao lại viết dông dài, hươu vượn làm Bác phiền lòng. Nhưng lại nghĩ: Thế mới là Bác vĩ đại! Bác thương con cháu, chỉ bảo từng ly, từng tí. Bác dạy: Người ta dùng tiếng ta mới là “hiện tượng” thôi. Còn bản chất, ý Bác là đừng đánh mất mình, mất gốc, quên quê cha đất tổ. Thì đó, xa quê đã gần tròn 40 năm mà trong thư chỉ vẻn vẹn hơn 60 từ, có tới 6 tiếng gốc Nghệ An: To nậy, mầng, răng, rứa, kêu, ngại. Việc nhỏ mà ý nghĩa giáo dục sâu sắc, tình quê cao đẹp biết bao!

Trong đối nhân xử thế, tùy lúc, tùy người, tùy việc, mỗi lời nói, việc làm của Người đều là bài học quý giá, mẫu mực cho các thế hệ con cháu chúng ta./.

Trịnh Tố Long
Theo qdnd.com.vn
Minh Thu (st)

Bài viết khác: