Hắn chậm rãi lấy thanh sắt rực đỏ rồi từ từ đâm vào bắp chân teo tóp của người tù cộng sản. “Xèo. Xèo”. Mùi thịt da cháy khét lẹt…
Thật khó có thể kể hết tội ác tày trời mà bọn cai ngục tàn độc đã trút lên thân hình những tù nhân cộng sản Phú Quốc suốt mấy chục năm trường. Cũng thật khó mà chỉ mặt điểm danh cho hết lũ quỷ đội lốt người ở chốn địa ngục trần gian kinh hoàng ấy. Song có một tên ác quỷ mà tên tuổi và những ngón đòn tra tấn “độc chiêu” man rợ đã gây bao nỗi đớn đau, kinh hoàng và cả những cái chết tức tưởi cho hàng ngàn tù nhân thì 40.000 chiến sĩ cộng sản bị giam cầm một thời ấy, mãi mãi không thể nào quên, mãi mãi là nỗi ám ánh hãi hùng. Đó là tên Bảy Nhu, Trưởng giám thị khu 2 khét tiếng…
Vồ sầu đời, gậy biệt ly
Chuồng cọp
Bảy Nhu tên thật là Trần Văn Nhu, sinh năm 1926 ở Đồng Tháp. Ngay từ nhỏ, hắn đã thích trò đấm đá, đánh giết nên 18 tuổi, hắn đi lính cho Tây. Cho đến khi chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ, hắn được đưa sang quân cảnh rồi ra Phú Quốc, làm Giám thị trưởng phân khu B2 rồi A2.
Chỉ trong vòng 1 năm, nhờ những thành tích “bất hảo” trong việc tra khảo, đánh đập tù nhân tàn khốc mà hắn được thăng cấp Thượng sỹ nhất và cất lên làm Trưởng giám thị khu biệt giam 2.
Chính tại nơi đây, hắn đã sáng tạo ra những đòn tra tấn “có một không hai” kinh hoàng khiến lũ cai ngục nhà lao Cây Dừa tôn sùng hắn lên hàng “sư phụ”.
Món “đặc sản” đầu tiên khét tiếng “danh bất hư truyền” mang thương hiệu của tên ác quỷ Bảy Nhu phải kể đến là “vồ sầu đời”, “gậy biệt ly”, “gậy đầu sinh đầu tử”… Người tù nào chỉ cần nếm vài vồ thì coi như “sầu đời”: chết ném xuống biển làm mồi cho cá, sống thì cũng sầu đời mãn kiếp với các thương tật khiếp vía. Còn cây gậy sắt to bằng bắp tay, ai đã bị đánh thì coi như… ly biệt đồng đội, gia đình.
Tên Bảy Nhu hàng ngày xách những “dụng cụ hành nghề” đặc biệt ấy vào tuần tra trong các trại giam. Hắn dùng chày vồ đánh vào các khớp xương như mắt cá, cùi chỏ, đầu gối, bả vai tù nhân.
Trước khi lãnh cơm ăn, hắn thường nện thẳng cánh 5-10 chày vào mắt cá những người ngồi gần cửa biệt giam. Hắn bảo: “Cho ngon cơm. Ngày nào không đánh tụi bay là tao ăn cơm không ngon”. Thấy người bị đánh oằn oại, vật vã vì đau đớn, hắn cười: “Chày này hơi nặng. Chày sau đánh nhẹ hơn”.
Miệng thì nói thế, nhưng hắn phùng môi trợn mắt, giương thẳng tay nện đánh “đốp” khiến nạn nhân giãy nảy người như điện giật. Hắn rất thích ngắm nhìn người bị đánh lăn lộn, quằn quại trong đau đớn. Nhiều người bị đánh lê lết cả tuần mới gượng dậy nổi.
Hắn nhiều lần tâm sự với bọn cai ngục đàn em: “Ngày nào không nhìn thấy máu, không lấy được mấy mạng người là tao không chịu được”. Chỉ với một tay thước bằng gỗ lim, hắn đã lần lượt đánh văng mắt cá chân của hơn 10.000 tù nhân. Lâu lâu, được lên trạm xá khám bệnh thủ tục, nhìn thấy anh em tù nhân bò lê bò lết qua sân, tên Nhu ngửa mặt lên trời cười sằng sặc.
Đục xương bánh chè, nướng sắt đỏ đâm xuyên bắp chân
Anh Nguyễn Văn Ni (tức Bảy Ni) là Bí thư Đảng uỷ phân khu B2 đã lãnh đạo phân khu đấu tranh giành thắng lợi trong việc đánh đuổi tên Trung sỹ giám thị trưởng ra khỏi phân khu.
Mổ bụng, moi gan tù nhân
Tức tối, Bảy Nhu cho người bắt anh lên Ban điều hành tra tấn. Hắn chậm rãi lấy cọng sắt bùng nhùng vùi vào lò than hồng cho đến khi thanh sắt rực đỏ rồi từ từ đâm vào bắp chân teo tóp của anh. “Xèo. Xèo”. Mùi thịt da cháy khét lẹt.
Anh Bảy Ni trợn mắt, nghiến răng cố kìm tiếng kêu thét trực bật lên. Một nhát. Xèo! Hai nhát. Xèo! ...
Cứ thế, hắn chậm rãi đâm như cô tiểu thư đài các ngồi thêu gối cưới. Đâm nhiều nhát mới xuyên qua một bắp chuối. Xuyên bắp chân trái xong, hắn chuyển sang xuyên chân phải. Mỗi lần sắt đâm là một lần anh Ni ngất xỉu.
Đau đớn tột cùng nhưng anh Ni không chịu khuất phục, vẫn mắng tên Bảy Nhu là thằng bán nước, dắt quân Mỹ về dày xéo đất nước, giết hại nhân dân. Tên Bảy Nhu tím mặt nhưng không nói nửa lời.
Lẳng lặng ra góc phòng, hắn cầm chiếc đục rồi lành lẽ như một nghệ nhân điêu khắc, hắn tỉ mẩn ngồi đục từng mảnh xương bánh chè. Máu từ chân anh Ni toé ra. Mặc. Hắn vẫn bình thản ngồi đục.
Sau, thấy máu chảy lênh láng khắp phòng, tên Nhu đứng dậy bảo: “Khổ thân mày. Để tao cầm máu cho”. Nói đoạn, hắn lấy cây sắt nướng đỏ lúc đầu, châm vào chỗ đầu gối trắng hếu thịt xương vừa đục, nhoe nhoét máu. Thịt bị đốt chín, máu ngưng chảy. Anh Ni gào to: “Đả đảo Mỹ-Thiệu. Hồ Chí Minh muôn năm”.
Tên Bảy Nhu cười khẩy nhưng hai thái dương hắn giật giật, mắt vằn lên những ánh nhìn dữ tợn. Lập tức, hai thanh gỗ nặng nề kẹp cứng lấy lồng ngực lép kẹp của người tù kiên trung Bảy Ni. Hai cái đinh vít đã được bôi dầu. Hai cái cờ-lê roàn roạt vặn. Hai thanh gỗ kêu rin rít ép lại sát nhau. Tiếng xương vỡ nghe xào xạo. Máu ở miệng, ở mũi anh Ni ào ra đẫm mảng xương ngực đang tiếp tục vỡ nát. Chưa hả. Tên Bảy Nhu vung chiếc búa năm cân lên quá đầu. Thụp! Một chiếc đinh mười phân ngập lút đầu gối anh. Thụp! Chiếc thứ 2. Thứ 3. Thứ 4… 16 chiếc đinh to như ngón tay lút ngập hai đầu gối. Anh Bảy Ni gục xuống. Đôi mắt căm hờn mở trừng trừng.
Đục răng, bẻ răng
Đó là “ngón độc chiêu” tàn độc nhất tạo dựng nên “thương hiệu Bảy Nhu” khét tiếng khắp nhà tù Phú Quốc, gây bao nỗi kinh hoàng cho hàng vạn tù nhân. Muốn đục răng, hắn dùng một khúc cây nhỏ bằng ngón tay, dài chừng 3-4 cm. Gàng miệng tù nhân ra, hắn đặt một đầu cây vào đúng vị trí chiếc răng định đục rồi bất thình lình, dùng chày vồ đóng một cái thật mạnh vào đầu kia, tức thì một, hai chiếc răng văng khỏi hàm. Có khi hứng chí, hắn bắt tù nhân tự cầm đầu cây đặt vào răng mình cho hắn đục. Nếu để chệch, bị đục thêm răng thì đành nghiến răng mà chịu.
Tái hiện hình ảnh cai ngục đục và bẻ răng tù nhân ở Di tích lịch sử
Nhà tù Phú Quốc. (Ảnh: Phỉ Thúy)
Còn món bẻ răng, Bảy Nhu không dùng kìm như các tên cai ngục khác thường làm. Cách bẻ của hắn rất đặc biệt. Hắn lấy một cây nhỏ bắt tù nhân cắn một đầu rồi dùng cây đánh lên hoặc đánh xuống ở đầu kia. Muốn bẻ răng hàm dưới thì đánh ngược lên. Muốn bẻ răng hàm trên thì đánh xuống. Máu tuôn xối xả, hắn bắt anh em tù nhân phải nuốt “cho máu trở về tim”. Thậm chí, hắn hứng máu vào bát rồi trộn vào cơm bắt tù nhân ăn.
Bất kỳ một tù nhân nào khi bị đày vào khu biệt giam 2, trước khi chui vào “địa ngục trần gian” ấy đều phải nộp cho hắn vài chiếc răng. Hắn nói: “Mày kích động đấu tranh hả? Trước khi vô biệt giam phải nộp cho bố mày hai cái răng con ạ”.
Kể về những ngón đòn “danh bất hư truyền” của ác quỷ Bảy Nhu, ông Vũ Minh Tằng, cựu tù binh Phú Quốc, người đã bị tên Nhu đập gãy 9 chiếc răng, bảo: “Tôi không tin là tôi có thể sống được đến ngày hôm nay”.
Giọng ông thào thào như chuyện vừa mới xảy ra hôm qua, chưa hết nỗi kinh hoàng: “Tôi vẫn nhớ như in. Đó là vào một đêm tối trời tháng 12 năm 1971. Tên Nhu và đám quân cảnh lôi tôi ra khỏi chuồng cọp. Nó nghi tôi tổ chức đào hầm cho gần một trăm anh em tù vượt ngục. Nó chỉ thẳng vào mặt tôi, cười gằn: “Mày giỏi lắm. Tao sẽ cho mày chết từ từ, vừa chết vừa nhớ vợ con và đồng đội, chứ bắn mày tòm một phát rồi vứt xuống biển thì quá dễ”.
Nói xong, nó dùng chày vồ đập vỡ đầu gối tôi. Nó chậm rãi đập từng nhát một. Tôi thấy đầu gối mình vỡ vụn, lạo xạo như vỏ trứng gà vỡ. Nó tiếp tục đóng đinh mười phân vào đầu gối và hai ống chân tôi. Cũng nhẩn nha đóng từng chiếc. Tôi ngất lịm đi. Nó dùng cả thùng nước xối ào vào mặt tôi.
Tôi vừa tỉnh dậy, tên Nhu dùng một cái ống tuýp sắt dài, ấn vào miệng tôi, bảo: “Tao xin cái răng. Mày muốn cho tao cái nào?”. Tôi chửi: “Gậy trong tay mày, mày lấy cái nào thì lấy”. Tôi vừa nói hết câu, thằng Nhu đã vung tuýp sắt ghè thẳng vào miệng tôi. Một cái răng văng ra, máu tuôn xối xả.
Nó tát vào mặt tôi: “Nuốt. Nuốt hết. Để bắn giọt máu nào ra ngoài, tao giết”. Cái chân răng của tôi dài, lại nhọn, tôi nuốt sao nổi. Thế là nó cho quân cảnh xối nước vào miệng tôi. Lần lượt chín cái răng của tôi bị chúng đập rụng rồi trôi vào bụng như thế. Bụng tôi căng phềnh lên như ai bơm hơi, tức anh ách như có ai cầm dao rạch ngang, rạch dọc. Vì trong bụng tôi toàn máu và cả thùng nước chúng nó cạy miệng dội vào mà.
Tỉnh dậy, tôi đã thấy mình nằm trong chuồng cọp rồi. Chuồng cọp thì anh biết đấy, chỉ rộng 24 m2, trần cao có 1,8m. Thế mà chúng lèn vào đó những 300 người, thành ra tù nhân phải nằm, ngồi đè lên nhau. Ngột ngạt khủng khiếp. Người sống và người chết nằm đè lẫn lộn.
Có ngày, chuồng cọp có tới 70 - 80 người chết. Chúng cho xác từng người vào quan tài rồi cho lên máy bay ném xuống biển. Cứ thấy người chết đến đâu, nó lại lèn thêm một đợt cho đầy chuồng. Ngày nào tôi cũng phải chứng kiến những cảnh chết chóc rùng rợn ấy.
Có lần, hứng chí, thằng Nhu ra lệnh cho đám quân cảnh nã pháo cối 82 ly xuống khu tù nhân. Thế là chỉ trong tích tắc, vài chục tù nhân mất mạng, xác người lại dày thêm ngoài bìa rừng”.
Có một điều đặc biệt ở Bảy Nhu như là một nghịch lý: Hắn theo đạo Phật, ăn chay trường, trong phòng riêng có hẳn một bàn thờ quanh năm nghi ngút khói hương, đêm đêm vẫn thường tụng kinh lần tràng hạt nhưng ban ngày, hắn đối xử với tù nhân tàn độc hơn cả loài cầm thú.
Khi đánh đập, tra khảo anh em tù binh, dù tàn bạo, rùng rợn đến đâu, khuôn mặt hắn không hề thay đổi sắc diện. Không giận dữ, không la hét mà bình thản, thậm chí pha chút khôi hài. Hắn coi việc đánh đập, hành hạ tù nhân như một thú vui, như việc tụng kinh lần tràng hạt trước bàn thờ Phật.
Rất nhiều tù nhân thân thể tiều tuỵ khi bị tên Bảy Nhu tra tấn bằng ngón đòn đục răng đã phải từ giã cõi đời vì không sao chịu nổi. Ngót chục năm hành nghề, hắn để dành được cả thúng răng tù nhân rồi kết lại thành chuỗi tràng hạt đeo tòng teng trên cổ, thoạt nhìn giống hệt Sa Tăng đeo xâu đầu lâu trong truyện Tây Du Ký.
(Còn nữa)
Theo VOV Online
Huyền Trang (st)