Trong thế kỷ 19, nhiều nước tư bản ở Tây Âu và Bắc Mỹ mạnh lên và tìm cách mở rộng xâm chiếm thuộc địa, hướng vào các nước còn lạc hậu ở Châu Phi, Châu Á, trong đó có Việt Nam. Để xâm chiếm Việt Nam, Pháp cho lực lượng do thám đi đầu, đội lốt truyền đạo. Những người truyền đạo bất chấp luật pháp, nên bị trừng trị. Chính phủ Pháp, lấy cớ triều đình Việt Nam trừng trị người có đạo, đã cho hải quân kéo đến Đà Nẵng, nã pháo tấn công, rồi chiếm đóng bán đảo Sơn Trà vào giữa năm 1858. Quan quân triều đình kháng cự sau 26 năm, nhưng trong thế ngày càng yếu, cứ nhượng bộ dần và đến ngày 6/6/1884 phải ký Hiệp ước Patơnôtơrơ, cam chịu đầu hàng. Phái viên của Chính phủ Pháp và viên Khâm sứ Pháp ở Huế buộc triều đình Việt Nam phải đem nộp cho chúng cái ấn của vua Tàu phong. Chúng bắt nấu chảy huỷ đi trước mặt chúng để chứng tỏ từ đây, nước Việt Nam là hoàn toàn thuộc nước Pháp, muốn lập ai lên làm vua phải xin phép nước Pháp. Chiếm được Việt Nam, chúng không để nước Việt Nam thống nhất mà chia ra thành 3 kỳ, mỗi kỳ có một chính sách riêng. Chúng tiếp tục dựa vào bộ máy vua quan làm tay sai, duy trì các hình thức bóc lột phong kiến, kiềm hãm sự phát triển của tư bản bản xứ, không lo mở mang dân trí mà chỉ tập trung vào việc khai thác thuộc địa theo một chính sách rất phản động và bảo thủ.
Ngày 23/9/1940, tại Hà Nội Pháp lại chịu ký Hiệp định để cho Nhật chiếm đóng Đông Dương. Ngoài việc cướp bóc ở thuộc địa để tự nuôi chúng và gửi về chính quốc, thực dân Pháp còn huy động nhân tài vật lực của Việt Nam để cung cấp cho Nhật. Quân Nhật vào Đông Dương, từ 10 vạn cuối năm 1943, đến đầu năm 1945 lên 20 vạn. Việt Nam trở thành bãi chiến trường giữa Nhật và quân Đồng minh. Nhân dân Việt Nam bị hai tầng áp bức bóc lột, lại lâm vào cảnh chiến tranh nên vô cùng khốn khổ. Năm 1945, hàng triệu người chết đói. Trước thảm họa mất nước, khắp nơi nổi dậy với nhiều cuộc bạo động, khởi nghĩa, lập căn cứ chống Pháp. Có cuộc một tháng, một năm, có cuộc 5 năm, 7 năm, 10 năm, 25 năm do các sĩ phu, các chỉ huy quân sự, các lãnh tụ Việt Nam Quốc dân Đảng yêu nước lãnh đạo. Các cuộc bạo động kể trên đã bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Ba vị vua chống Pháp bị Pháp bắt đày qua châu Phi. Nhưng những tấm gương vì nước quên thân đó mãi mãi là những nét vàng son tô điểm cho khí phách Việt Nam. Cứu nước theo đường lối nào đây? Đó là câu hỏi lớn đặt ra cho những người Việt Nam yêu nước thời này. Ý tưởng giành độc lập để vua Nam làm chủ nước Nam đã quá lỗi thời. Sự mơ màng về một nước Việt Nam độc lập theo chế độ dân chủ tư sản đã tỏ ra không thực tế vì chưa xuất hiện giai cấp tư sản trong xã hội Việt Nam. Sau trận chiến năm 1905, Nhật đánh thắng Nga, có người tưởng có thể nhờ nước đồng chủng da vàng để đánh đuổi bọn thống trị da trắng; sau cuộc cách mạng Tân Hợi (1911) ở Trung Quốc, tưởng có thể nhờ Quốc dân Đảng Trung Quốc giúp, nhưng qua thực tế đều thấy không được. Tình trạng khủng hoảng đường lối cứu nước nói trên chỉ được khắc phục từ khi Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đường cách mạng vô sản và xây dựng được Đảng Cộng sản Việt Nam gánh trách nhiệm lãnh đạo cách mạng vào đầu năm 1930. Đảng Cộng sản Việt Nam có chủ nghĩa Mác - Lênin soi đường, xác định rõ mục tiêu đánh đổ ách thống trị của đế quốc phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân, thực hiện độc lập dân tộc người cày có ruộng tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Mục tiêu đó hợp với nguyện vọng của nhân dân, hợp với xu thế của thời đại.
Từ ngày có Đảng lãnh đạo, trong 10 năm đầu đã có bốn cuộc bạo động nổ ra ở cả ba miền Trung, Nam, Bắc như cuộc khởi nghĩa lập chính quyền Xô viết ở Nghệ An - Hà Tĩnh (1930 - 1931) cuộc nổi dậy ở Bắc Sơn (tháng 9 năm 1940) cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (tháng 11 năm 1940) và cuộc nổi dậy của binh lính yêu nước ở Đô Lương thuộc Nghệ An (tháng 1 năm 1941). Các cuộc bạo động này đã thức tỉnh tinh thần cách mạng của nhân dân cả nước Các phong trào trong những năm từ 1936 đến 1939 đã làm cho quần chúng trưởng thành về đấu tranh chính trị, đấu tranh về văn hóa, đấu tranh về dư luận trên báo chí công khai, bằng các hình thức hợp pháp, nửa hợp pháp. Ngày 8/2/1941 đồng chí Nguyễn ái Quốc về ở Pắc Bó Cao Bằng, để cùng Trung ương Đảng chuẩn bị Tổng khởi nghĩa. Ngày 25/10/1941, với sự ra đời của Mặt trận Việt Minh, Đảng đã phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Việt Minh lại có Mặt trận liên minh Trung - Việt là hình thức để hoạt động hợp pháp ở nước ngoài, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước Đồng minh. Cuối năm 1941, nhiều nơi thành lập đội vũ trang. Năm 1943, hình thành căn cứ địa liên hoàn nối liền Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Cạn, Hà Giang, Bắc Giang, Vĩnh Yên.
Tiếp theo việc thành lập Đội Việt Nam Cứu quốc quân tháng 2 năm 1941, ngày 22/12/1944 thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân. Ở mặt trận Thái Bình Dương, vào lúc quân Nhật bị thất bại liên tiếp, Nhật đề phòng lực lượng Pháp theo Đờ Gôn nổi lên đánh phía sau lưng khi quân Đồng minh đổ bộ, nên chủ trương lập đổ Pháp trước, để độc chiếm Đông Dương. Đêm 9/3/1945, Nhật nổ súng đánh Pháp cùng một lúc trên toàn cõi Đông Dương. Chưa đầy một ngày, thực dân Pháp, kẻ bỏ chạy, kẻ đầu hàng. Ngày 10 tháng 3, Yôcôhama, đại sứ của Thiên hoàng vào Đại nội gặp Bảo Đại "trao trả cho Việt Nam nền độc lập mà Nhật, vừa giành được trong tay Pháp" và nhận làm "cố vấn tối cao" cho Bảo Đại. Ngày 17 tháng 3, Nhật cho thành lập Chính phủ do Trần Trọng Kim làm Thủ tướng. Lúc này nhiều Đảng phái thân Nhật mọc lên như nấm để che đậy bộ mặt xâm lược, Nhật buộc nội các Trần Trọng Kim ra lệnh ân xá tù chính trị. Hàng ngàn cán bộ đảng viên bị giam ở các nhà tù, đã thoát ra ngoài hoạt động. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, Đảng đã lãnh đạo nhân dân tích cực chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa, phong trào đấu tranh chính trị dưới ngọn cờ của Mặt trận Việt Minh lên mạnh. Nhiều tỉnh huyện, chính quyền tay sai của Nhật bị tê liệt. Nhiều chiến khu như chiến khu Đông Triều, chiến khu Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa - khu du kích BaTơ, chiến khu Mộ Đức, chiến khu Sơn Tịnh ở Quảng Ngãi và khu giải phóng Việt Bắc được thành lập. Ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn nơi địch tập trung nhiều lực lượng, thì Đảng và Mặt trận ở đây cũng đã phát động được quần chúng, phát triển nhiều hội viên cứu quốc. Ngày 16/4/1945, Hồng quân Liên Xô tấn công Béclin. Trong 2 tuần lễ, 45 vạn quân phát xít Đức bị tiêu diệt. Ngày 9 tháng 5 Đức đầu hàng không điều kiện. Gọng kìm phía Tây của trục phát xít quốc tế bị bẻ gãy.
Đầu tháng 5 năm 1945, Hồ Chí Minh từ Cao Bằng về Tân Trào (Tuyên Quang) để chỉ đạo phong trào cả nước. Ngày 6 và ngày 8 tháng 8 năm 1945, Mỹ ném bom nguyên tử vào 2 thành phố Hirôsima và Nagasaki, thúc Nhật hoàng đầu hàng trước lúc Hồng Quân Liên Xô tiến công vào đất Nhật. Ngày 9/8/1945 Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật. Trong vòng 1 tuần lễ, một triệu quân Quan Đông thiện chiến nhất của Nhật, đóng ở Mãn Châu bị Hồng quân Liên Xô tiêu diệt. Ngày 13/8/1945 Nhật hoàng chính thức công bố lệnh đầu hàng Đồng minh không điều kiện. 11 giờ đêm ngày 13/8/1945, lệnh Tổng khởi nghĩa được ban hành. Từ 13 đến 15 tháng 8, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào, chủ trương lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền, cử ra ủy ban khởi nghĩa toàn quốc, đề ra đường lối đối nội đối ngoại trong tình hình mới. Ngày 16 tháng 8, Đại hội Quốc dân họp, tán thành chủ trương của Đảng là lãnh đạo quần chúng nổi dậy, giành lấy chính quyền từ tay Nhật, đứng ở địa vị làm chủ nước mình mà tiếp đón quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật trên đất Đông Dương. Đại hội thông qua 10 Chính sách, thành lập Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam (tức là Chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Đại hội qui định Quốc kỳ là nền đỏ, giữa có ngôi sao vàng 5 cánh, Quốc ca là bài Tiến quân ca. Đại hội quốc dân cũng nhận định: "Không phải Nhật bại là nước ta tự nhiên được độc lập. Nhiều sự gay go trở ngại sẽ xảy ra. Chúng ta phải khôn khéo và kiên quyết". Sau Đại hội Quốc dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi: "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến! Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta!".
Trong lúc này, đúng như nhận định của Đại hội Quốc dân Tân Trào, tình hình địch còn rất phức tạp. Được lệnh đầu hàng, gần 20 vạn quân Nhật đóng ở Đông Dương có nản lòng. Nhưng riêng ở Việt Nam, chúng còn 10 vạn quân chưa kể quân Nhật đóng ở Miến Điện còn lần lượt kéo về. Trên đất nước Việt Nam, chúng chưa từng thua trận, đội ngũ còn nguyên, kỷ cương trên dưới còn giữ vững, súng đạn và các kho dự trữ hậu cần còn nhiều. Phát xít Nhật còn mưu toan cứu nguy cho chính quyền tay sai của chúng.
Ngày 14 tháng 8 năm 1945, nhân danh "Chính phủ lâm thời" Trần Trọng Kim ra tuyên cáo: "Toàn thể nội các chúng tôi nhất quyết không lùi một bước trước một sự khó khăn nào cả, để làm tròn sứ mệnh là kiến thiết quốc gia, củng cố nền độc lập của Tổ quốc. Muốn đạt được mục đích ấy, chúng tôi vẫn hợp tác chặt chẽ với các nhà đương chức Nhật Bản". Trong ngày này theo lệnh Nhật, các tổ chức thân Nhật trong "Mặt trận quốc gia thống nhất" họp bất thường, nêu ba khẩu hiệu: "Chống đế quốc Pháp, chống ngoại xâm", "Bảo vệ trị an", "Bài trừ phản động" nhằm đối phó với làn sóng cách mạng đang dâng trào.
Ngày 15 tháng 8, Nhật trao cho Khâm sai Bắc Kỳ: Đội Bảo an binh, Ty liêm phóng Trung ương, Trường Đại học và Sở Kiểm duyệt báo chí. Phủ Khâm sai họp "Hội đồng tư vấn" kêu gọi thanh niên và công chức lập thành đội ngũ, theo lớp huấn luyện đặc biệt của Bộ Thanh niên để lo việc kiến thiết quốc gia và yêu cầu Nhật phát súng đạn cho họ. Nhật cũng tổ chức lễ trao trả Nam Kỳ cho chính quyền Bảo Đại - Trần Trọng Kim.
Ngày 23 tháng 8 theo lệnh Nhật, bọn thân Nhật ở Sài Gòn tổ chức đón Nguyễn Văn Sâm mới được cử làm Khâm sai Nam Kỳ. Triều đình Huế còn đề nghị Việt Minh hãy tham gia nội các mới của Thủ tướng Trần Trọng Kim. Khâm sai Bắc Kỳ Phan Kế Toại, quyền Khâm sai Hồ Văn Ngà ở Sài Gòn trong lúc gặp đại diện của Việt Minh đã nói rõ điều đó. Đại diện Việt Minh chẳng những phản bác mà còn nói rõ tình thế, hướng cho họ suy nghĩ để có thái độ ứng xử sao cho ích nhà, lợi nước.
Ngày 17/8/1945 Phan Kế Toại nhận rõ thời cuộc đã từ chức Khâm sai Bắc Kỳ. Điều phải tính tới nữa là lực lượng quân Pháp, sau khi bị Nhật đảo chính, số chạy qua Trung Quốc, qua Lào, có thể quay trở lại, số quân Pháp bị nhốt trong các trại tù binh của Nhật có thể được Nhật thả ra, để trở thành các đơn vị của quân đội thực dân Pháp chống lại lực lượng khởi nghĩa.
Ngày 24/3/1945 Sáclơ Đờgôn đã từng tuyên bố sẽ chiếm lại Đông Dương sau khi Nhật bại trận. Còn phức tạp hơn vì từ năm 1940, Quốc dân Đảng Tưởng Giới Thạch đã chuẩn bị kế hoạch "Hoa quân nhập Việt" và chúng đã cho tay sai vào chiếm 5 thị xã: Hà Giang, Lào Cai - Móng Cái, Lai Châu, Vĩnh Yên. Lệnh tổng khởi nghĩa phát ra đêm 13 tháng 8 chỉ đến được với những nơi gần. Các địa phương xa thì do đảng viên tự theo dõi tình hình, dựa vào Chỉ thị "Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" của Trung ương Đảng ban hành từ 12/3/1945, mà tính kế hoạch giành chính quyền ở địa phương.
Ngày 14 tháng 8, các đơn vị giải phóng quân mở đầu tấn công giải phóng các thị xã Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái. Từ ngày 14 đến ngày 28 tháng 8, trừ 5 thị xã ở biên giới phía Bắc do tay sai của Quốc dân Đảng Tưởng Giới Thạch chiếm đóng, khắp nơi trên cả nước kể cả ở Côn Đảo, lực lượng khởi nghĩa đều đã giành được chính quyền. Riêng ở ba thành phố lớn: Hà Nội - Huế - Sài Gòn, tình hình diễn biến có phức tạp hơn. Ở Hà Nội, đề phòngViệt Minh nổi dậy, quân Nhật đã tổ chức canh gác nghiêm nhặt, tăng cường lực lượng vũ trang phòng vệ ở các nơi xung yếu như nhà máy điện, nhà máy nước, kho bạc, nhà băng Đông Dương, nhà ga, bưu điện. Chúng cho xe thiết giáp đi tuần và thị uy suốt đêm. Chúng cho dán khắp các phố tuyên cáo của hiến binh Nhật cấm nhân dân tụ họp. Bọn Đại Việt quốc gia liên minh thân Nhật định dùng Tổng hội viên chức tổ chức một cuộc mít tinh lớn của các giới để ủng hộ Chính phủ Trần Trọng Kim vào ngày 17 tháng 8. Mặc dầu chưa nhận được lệnh Tổng khởi nghĩa, nhưng khi biết được tin này, Đảng bộ Hà Nội liền chỉ thị cho lực lượng công nhân và thanh niên cứu quốc khoảng 3.000 người với các chi đội tự vệ vũ trang gần 2.000 người tham gia cuộc mít tinh này.
Sáng 17 tháng 8, trước Nhà hát lớn, đã có cuộc mít tinh với khoảng 20 ngàn người dự. Bọn tay sai Nhật vừa tuyên bố khai mạc thì Đội Tuyên truyền xung phong Việt Minh nhảy lên giành lấy diễn đàn, cờ đỏ sao vàng đồng loạt phất lên, được quần chúng hoan hô nhiệt liệt. Sau khi nghe tin Nhật đã đầu hàng, nghe chủ trương cứu nước của Mặt trận Việt Minh, quần chúng rầm rập kéo biểu tình thị uy trên các đường phố, hô vang các khẩu hiệu "Ủng hộ Việt Minh" "Đả đảo bù nhìn", "Việt Nam hoàn toàn độc lập". Đêm 17 tháng 8, Thành ủy họp, thấy cần thay đổi khẩu hiệu "Đánh đuổi giặc Nhật" bằng khẩu hiệu "Chống mọi sự hành động của đế quốc can thiệp vào công cuộc giành độc lập của dân tộc Việt Nam" và chủ trương không đánh vào các đồn trại của Nhật, mà dùng kế "địch vận". Ở ngoại thành sẽ khởi nghĩa vào ngày 18 tháng 8. Ở nội thành sẽ khởi nghĩa ngày 19 tháng 8 để có nhân dân ngoại thành tiếp sức. Ngày 18 tháng 8, 3.000 công nhân biểu tình trước Dinh Khâm sai, nơi mà Phan Kế Toại trước đó l ngày đã từ chức. Tất cả tù chính trị còn bị giam ở Hỏa Lò cũng đấu tranh và cũng được thả ra. Nhân dân Hà Nội đòi thả hai ngựời bị Nhật bắt vì đã dùng ô tô Nhật chở vũ khí từ Gia Lâm vào nội thành, cũng được Nhật nhượng bộ.
Sáng ngày 19/8/1945, cả Thủ đô vùng dậy, dưới rừng cờ đỏ sao vàng, bừng bừng khí thế, kéo đến họp mít tinh ở Quảng trường Nhà hát lớn, nghe lời kêu gọi của Ủy ban khởi nghĩa Hà Nội. Sau đó đi tuần hành thị uy và lần lượt chiếm Phủ Khâm sai, Tòa thị chính, Trại lính bảo an, Sở Cảnh sát và các công sở của chính quyền bù nhìn. Ở Hà Nội, có hàng vạn quân Nhật với Bộ tư lệnh đóng ở Phủ toàn quyền, nhưng trước khí thế sôi sục của lực lượng khởi nghĩa và chủ trương của Thành ủy Hà Nội không đánh vào đồn trại của Nhật, nên Nhật không can thiệp vào hoạt động của Việt Minh. Cuộc khởi nghĩa thành công ở Hà Nội đã cổ vũ các nơi gấp rút nổi dậy giành chính quyền. Ở thành phố Huế, nơi tiêu biểu cho chế độ phong kiến, nơi đóng trụ sở của Chính phủ Trần Trọng Kim, lực lượng Việt Minh đã có cơ sở mạnh trong các tổ chức của địch như tổ chức Thanh niên Phan Anh, học sinh TrườngThanh niên tiền tuyấn và các trại lính bảo an. Những người lãnh đạo ở Huế cố tránh không làm cho Bảo Đại và Trần Trọng Kim sợ hãi. Vì nếu sợ hãi, họ có thể yêu cầu quân Nhật bảo vệ, rồi cố thủ trong thành Huế có tường cao, hào sâu, có đồn trại canh giữ cho đến lúc quân Đồng minh đến. Và như vậy thì ở Huế nói riêng, cũng như tình thế chung của cuộc tổng khởi nghĩa sẽ gặp nhiều khó khăn. Từ đó, Thành ủy đã chủ trương:
- Vận động vua Bảo Đại thoái vị.
- Vận động quan chức Chính phủ Trần Trọng Kim và những người có trách nhiệm trong các tổ chức thân Nhật, tránh những việc làm có hại cho sự nghiệp giải phóng Tổ quốc.
- Vận động lính bảo an theo cách mạng.
- Vận động các quan tri huyện giao chính quyền cho Việt Minh địa phương.
- Viết thư gửi cho cố vấn Nhật là Yôcôhama yêu cầu quân Nhật không can thiệp vào công việc của Việt Minh để được an toàn.
Đêm 22 tháng 8, Việt Minh đã huy động nhân dân, kêu gọi lính đứng về phía cách mạng và nộp súng lập công. Trong lúc nhân dân các huyện kéo về tràn ngập thành phố, chia nhau chiếm các bộ, các sở, thì Thành bộ Việt Minh gửi thư cho vua Bảo Đại yêu cầu: Giao đội lính khố vàng bảo vệ hoàng cung cho chính quyền cách mạng với tất cả vũ khí. Báo cho Nhật là triều đình đã trao quyền bính cho Việt Minh. Điện cho các tỉnh trưởng, bảo phải giao quyền cho Việt Minh. Và hứa sẽ bảo đảm an toàn tính mạng và quyền công dân cho Bảo Đại. Nhận được "tối hậu thư", nhà vua đã chấp nhận 16 giờ ngày 23 tháng 8, gần 15 vạn người của cả tỉnh Thừa Thiên tập hợp về Huế mừng cách mạng thành công.
Đúng 13 giờ chiều 30 tháng 8, trước cuộc mít tinh ở lầu Ngọ môn với hàng vạn người tham gia dưới rừng cờ đỏ sao vàng, vua Bảo Đại đọc chiếu thoái vị và nộp cho đại diện Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa quốc ấn bằng vàng và một thanh gươm bằng vàng nạm ngọc, tượng trưng cho quyền lực của chế độ quân chủ phong kiến. ở thành phố Sài Gòn, là nơi có Tổng hành dinh Đông Nam châu Á của Nhật, có nhiều quân Nhật chiếm đóng. Minôđa, Thống đốc Nam Kỳ đã tuyên bố Nam Kỳ không những "dưới quyền kiểm soát mà còn dưới quyền cai trị của quân đội Nhật". Sau ngày đảo chính, 17.000 người Pháp bị Nhật bắt làm tù binh cũng bị giam ở Sài Gòn. Các lực lượng thân Nhật ở đây cũng phát triển mạnh, trong đó có đội quân "Heilon" được vũ trang khá đầy đủ, và có những bộ phận giáo phái được Nhật cấp cho súng đạn.
Về phía cách mạng, tháng 7 năm 1945, hai Xứ ủy Tiền phong và Giải phóng đã lập Ban Hành động thống nhất. Ngày 15/8/1945, Xứ ủy Tiền phong lập Ủy ban Khởi nghĩa, chủ trương sẵn sàng chuẩn bị để khi có tin Hà Nội khởi nghĩa thì Sài Gòn phải lập tức khởi nghĩa. Xứ ủy đã chủ trương sử dụng tổ chức Thanh niên Tiền phong do Nhật giao cho bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đứng ra thành lập từ tháng 3 năm 1945, để tập hợp đông đảo quần chúng đứng về phía cách mạng. Nhân thời cơ Tổng khởi nghĩa đã đến, để tác động đến thái độ của quân đội Nhật, Xứ ủy đã phái bác sĩ Phạm Ngọc Thạch và kỹ sư Ngô Tấn Nhơn, hai thủ lĩnh của Thanh niên Tiền phong, đến Tổng hành dinh Đông Nam Á của Nhật, gặp Thống chế Têraưchi, giải thích chủ trương của Việt Minh Nam Kỳ, yêu cầu quân Nhật không can thiệp vào phong trào cách mạng Việt Nam và giao số vũ khí Nhật tước của Pháp cho Việt Nam. Têraưchi hứa làm theo và trao chiếc gươm ngắn cho bác sĩ Phạm Ngọc Thạch để làm bằng, chấp nhận trao cho ta 1.200 súng với 2 triệu viên đạn. Sáng 19 tháng 8, trong dịp làm Lễ Tuyên thệ của Thanh niên Tiền phong, đồng chí Phạm Ngọc Thạch đã đọc diễn văn khích lệ lòng yêu nước, cổ vũ quần chúng đứng lên giành độc lập. 7 vạn thanh niên đã đi tuần hành vừa hát vang bài hát "Lên đàng". Trong ngày này, công nhân cũng họp mít tinh ở nhiều nơi với lực lượng 20.000 đoàn viên công đoàn làm nòng cốt.
Đêm 19 tháng 8, tại rạp Nguyễn Văn Hảo, Việt Minh tổ chức mít tinh, quy tụ đông đảo người tham dự, để trình bày chương trình hành động của mình. Trong ngày 19 tháng 8 cờ Đảng, cờ Việt Minh xuất hiện nhiều nơi. Ngày 20 tháng 8, Mặt trận Việt Minh ra công khai ở thành phố. Thanh niên Tiền phong tuyên bố đứng vào hàng ngũ Mặt trận Việt Minh. Đêm 24 tháng 8 quần chúng cách mạng ở Sài Gòn và các tỉnh lân cận, được tổ chức thành từng đoàn, mang theo giáo mác, tầm vông vạt nhọn, rầm rập kéo vào trung tâm thành phố, tham gia khởi nghĩa giành chính quyền. Quần chúng đã tiến chiếm Sở Công an, Sở Cảnh sát, nhà ga, bưu điện, nhà đèn, trụ sở các quận, các bót, rồi chiếm Soái phủ Nam Kỳ.
Sáng 25 tháng 8, cả triệu quần chúng kéo vào thành phố hô vang như sấm dậy các khẩu hiệu: "Việt Nam hoàn toàn độc lập!", "Tất cả chính quyền về tay Việt Minh!", "Mặt trận Việt Minh muôn năm", "Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm!", "Độc lập hay là chết!". Dự lễ ra mắt của Ủy ban nhân dân Nam Kỳ xong, quần chúng tỏa ra diễu hành khắp nơi, mừng chính quyền đã về tay nhân dân. Như vậy là cuộc Tổng khởi nghĩa đã thành công trong cả nước chỉ trong vòng 15 ngày, trước lúc quân Đồng minh đổ bộ vào Việt Nam, đúng như kế hoạch đã định. Đó là sự thành công trọn vẹn, không đổ máu
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình Hà Nội, trước cuộc mít tinh của hơn 50 vạn nhân dân Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh, thay mặt Chính phủ lâm thời, đọc Bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với toàn thể nhân dân, với toàn thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời. Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã có những nét rất độc đáo. Đó là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mang tính nhân dân rất sâu sắc, thực sự là "đem sức ta tự giải phóng cho ta". Đó là cuộc cách mạng thắng lợi ở một nước thuộc địa của đế quốc Pháp, Nhật, trong lúc ở chính quốc Pháp và Nhật, cách mạng vô sản chưa thành công. Đó là cuộc cách mạng phải đụng đầu với một lực lượng quân đội phản cách mạng rất lớn, còn cồ mưu đồ phức tạp, nhưng đã giành được thắng lợi trọn vẹn mà không phải đổ máu. Sức mạnh quyết định thắng lợi đó là lòng yêu nước và tinh thần cách mạng rất cao, của nhân dân đã được chuẩn bị qua rèn luyện thử thách 15 năm cùng với Đảng chiến đấu, chịu nhiều hy sinh mất mát.
Thắng lợi đó thể hiện tài tổ chức và sự vận dụng mưu lược khôn khéo đầy trí tuệ của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là vị lãnh tụ sáng suốt Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Cuộc vận động cách mạng đã giành thắng lợi này, không chỉ có dân vận mà có cả quan vận, vua vận, binh vận, tướng vận, ngụy vận, địch vận với nhiều hình thức đa dạng phong phú. Ai nghĩ rằng, thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám chỉ là xô "cánh cửa chính trị khép hờ" là "hứng của ngọt trời cho do thời cơ mang lại" là sự ngộ nhận, hoàn toàn không đúng. Đó là cuộc cách mạng mà việc chạy đua về thời gian giữa lực lượng khởi nghĩa và quân Đồng minh được đặt ra rất gay gắt. Kết quả là cuộc tổng khởi nghĩa đã thành công trọn vẹn trong 15 ngày, trước lúc quân Quốc dân Đảng Tưởng Giới Thạch vào Hà Nội 10 ngày và trước lúc quân của đế quốc Anh vào Sài Gòn 12 ngày. Đó là cuộc cách mạng mà lệnh Tổng khởi nghĩa ban hành không đến được với phần lớn các địa phương, nhưng vẫn đồng loạt nổi dậy chớp thời cơ, thống nhất ý chí, thống nhất hành động, thống nhất mưu lược. Nơi nào cũng biết tranh thủ vận động quân Nhật, không có nơi nào có hành động manh động khiêu khích địch. Ngoài những nét độc đáo nêu trên, cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công còn có ý nghĩa lịch sử rất to lớn. Đó là sự kiện nổi bật, có vị trí trung tâm trong các sự kiện lịch sử của Việt Nam trong thế kỷ 20. Nó bắt nguồn từ thảm họa của một dân tộc bị mất nước. Nó phát huy truyền thống yêu nước từ lâu đời của dân ta. Nó chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật trong 87 năm. Nó đánh đổ chế độ quân chủ phong kiến mấy ngàn năm. Nó mở ra thời đại mới, thời đại nước độc lập, dân làm chủ. Nó làm cho Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành một Đảng cầm quyền và có thêm nhiều bài học về lãnh đạo rất phong phú. Nó tạo ra thế và lực mới để tiếp tục đánh thắng giặc Pháp giặc Mỹ trong 30 năm. Nó làm cho thế đứng trên chính trường quốc tế của nước Việt Nam được nâng cao, rất có lợi cho công cuộc xây dựng đất nước.
Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám còn có ý nghĩa quốc tế to lớn. Nó trực tiếp tạo ra chỗ dựa đáng tin cậy cho cuộc cách mạng của nhân dân Lào và Campuchia anh em và góp phần làm thay đổi cục diện chính trị ở Đông Nam Á. Nó cổ vũ và cung cấp kinh nghiệm thành công cho nhân dân các nước thuộc địa đấu tranh giành độc lập. Nó cắt đứt một vòi hút máu của con bạch tuộc đế quốc làm cho thế lực đế quốc ở chính quốc phải điều chỉnh chính sách. Nó làm cho Việt Nam trở thành một trong những dân tộc tiên phong cách mạng, là lực lượng tích cực trong phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Ngoài ra, kinh nghiệm thực tiễn của cuộc Cách mạng Tháng Tám đã chứng minh tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng vô sản và bổ sung thêm một Đảng lý luận về cuộc cách mạng dân tộc ở nước thuộc địa khá phong phú. Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám, cùng với thắng lợi to lớn tiếp theo của cuộc kháng chiến lâu dài 30 năm chống Pháp, chống Mỹ, đã nâng cao lòng tự tin, tự hào của nhân dân các dân tộc trên đất nước Việt Nam. Đó là động lực tinh thần rất quan trọng mà nếu phát huy tốt sẽ là bệ phóng cho Việt Nam cất cánh đi vào thế kỷ 21, với nhiều thành tựu mới to lớn.
Theo Trần Trọng Tân/ Báo điện tử Đảng Cộng sản
Tâm Trang (st)