Bảo vệ biển đảo và sự toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc luôn là vấn đề hệ trọng của mỗi quốc gia, là trách nhiệm của mỗi người dân. Hơn nửa thế kỷ qua, Nhà nước và người Việt Nam đã luôn hết mình đấu tranh vì chủ quyền biển đảo Tổ quốc, đã dày công nghiên cứu, tìm tòi và tập hợp nhiều bằng chứng, chứng cứ lịch sử chứng minh cho hành vi xác lập chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa. Dựa trên thành quả nghiên cứu, tập hợp những bằng chứng, chứng cứ lịch sử để minh chứng cho hành vi xác lập chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa, bài viết này đi nghiên cứu sự phù hợp về mặt pháp lý giữa hành vi xác lập chủ quyền của Nhà nước phong kiến Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa dưới góc nhìn một số phán quyết của Trọng tài và Tòa án Công lý quốc tế. Qua đó, cho chúng ta đánh giá nhất định về ưu thế chủ quyền của Việt Nam trong trường hợp tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa được giải quyết trước Tòa án Công lý quốc tế; tiếp tục củng cố niềm tin hơn nữa để đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo quê hương.
1. Nội dung pháp lý để giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ
Trước năm 1922, việc giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ giữa các quốc gia do Trọng tài quốc tế tiến hành. Từ khoảng năm 1922 đến năm 1945 công việc này do Tòa án thường trực Công lý quốc tế đảm nhiệm, từ năm 1945 đến nay thì thuộc Tòa án Công lý quốc tế. Tính đến nay,các cơ quan tài phánnàyđã giảiquyết khoảng 20 vụ tranh chấp chủ quyền lãnh thổ. Khi giải quyết các tranh chấp đó, các trọng tài và thẩm phán đều viện dẫn tới nguyên tắc chiếm hữu thật sự để quyết định sẽ trao chủ quyền lãnh thổ cho quốc gia nào. Nguyên tắc chiếm hữu thật sự được hình thành từ năm 1885, đáp ứng nhu cầu giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ ở các khu vực châu Phi giữa các nước châu Âu trong quá trình đi tìm vùng đất mới của các nước này, ghi nhận tại Định ước Berlin với hai nội dung chủ yếu: Thứ nhất, quốc gia chiếm hữu lãnh thổ phải thông báo cho các nước khác; thứ hai, nước chiếm hữu phải có hiện diện của tổ chức chính quyền tại chỗ để thi hành pháp luật. Sau đó, Tuyên bố của Viện Pháp luật quốc tế ở Lausanne (Thụy Sĩ) năm 1888 tiếp tục khẳng định nguyên tắc chiếm hữu thật sự nhưng nhấn mạnh thêm rằng: Việc chiếm hữu phải là thực sự - thực tế chứ không phải trên danh nghĩa. Tuy nhiên, khi Thế chiến thứ nhất kết thúc, Hiệp ước Saint-Germain ngày 10/9/1919 đã tuyên bố hủy bỏ Định ước Berlin với lý do trên thế giới không còn lãnh thổ vô chủ nữa. Nhưng do tính hợp lý và khoa học của nguyên tắc chiếm hữu thực sự mà các cơ quan tài phán quốc tế vẫn viện dẫn nguyên tắc này khi giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ giữa các quốc gia. Quá trình đó làm cho nguyên tắc chiếm hữu thật sự ban đầu đã có những thay đổi nhất định, nó trở lên linh hoạt và có thể vận dụng để giải quyết hầu hết các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với những đặc điểm địa lý và tự nhiên hoàn toàn khác nhau. Qua đó chỉ ra, chiếm hữu thật sự gồm ba điều kiện sau: (i) Chủ thể chiếm lãnh thổ phải là quốc gia; (ii) Đối tượng chiếm hữu phải là lãnh thổ vô chủ hoặc bị bỏ rơi; (iii) Hành vi chiếm hữu phải hội tụ đủ cả yếu tố vật chất và tinh thần của chủ thể chiếm hữu.Yếu tố vật chấtthể hiện rằng hành vi chiếm hữu phải diễn ra trong điều kiện hòa bình, thực sự, đầy đủ, liên tục trong thời gian dài nhất định phù hợp với điều kiện tự nhiên của lãnh thổ;yếu tố tinh thầnthể hiện rằng quốc gia chiếm hữu phải thể hiện rõ ý định chiếm hữu lãnh thổ của mình. Ta sẽ lần lượt xem xét ba điều kiện của chiếm hữu thật sự được vận dụng trong một số phán quyết của trọng tài và Tòa án Công lý quốc tế về tranh chấp lãnh thổ ở nhiều quốc gia, trong đó có cả các nước láng giềng của Việt Nam như sau:
Vụ án tranh chấp đảo Palmas giữa Mỹ và Hà Lan năm 1928
Palmas là đảo có ít giá trị kinh tế và vị trí chiến lược không đáng kể, dài 2 dặm, rộng ¾ dặm, dân số khoảng 750 người, nằm giữa Indonesia (thuộc địa của Hà Lan) và Philippines (thuộc địa Tây Ban Nha) nhưng gần Philippines hơn. Năm 1989, Tây Ban Nha ký Hiệp định nhượng lại Philippines cho Hoa Kỳ, bao gồm cả Palmas. Năm 1906, Hoa Kỳ biết Hà Lan khẳng định chủ quyền với Palmas và hai nước đồng ý giải quyết tranh chấp tại Tòa Trọng tài năm 1928, Thẩm phán là Max Huber, người Thụy Sỹ.
Lập luận của hai bên:Hoa Kỳ đòi chủ quyền bằng lập luận về quyền khám phá và sở hữu liền kề. Trong khi đó, Hà Lan cho rằng họ nắm giữ quyền sở hữu thực tế trong hòa bình, kéo dài liên tục suốt hơn hai thế kỷ mà không có sự phản đối từ Tây Ban Nha, họ đã ký hàng loạt các Hiệp định với nhà cầm quyền địa phương, lập nên thuộc địa Hà Lan trên đảo, kèm theo là các hoạt động kinh tế, tiền tệ, nghĩa vụ khi có chiến tranh, đối ngoại...
Phán quyết của thẩm phán: Tây Ban Nha không thể chuyển nhượng hợp pháp cái mà họ không sở hữu. Bởi quả nhiên họ nắm giữ sở hữu ban đầu khi khám phá đảo, nhưng sau đó không thực thi quyền lực thực sự với đảo nên đòi hỏi của Hòa Kỳ là yếu ớt, mờ nhạt và không được chấp nhận. Ngược lại các hoạt động của Hà Lan đối với Palmas là đặc trưng quyền lực của Nhà nước, nó diễn ra trong hòa bình bởi không có xung đột nào giữa các quốc gia, nó liên tục trong suốt thời gian dài, mặc dù cũng có những khoảng trống nhất định (từ 1726-1825). Như vậy, Palmas là lãnh thổ thuộc sở hữu của Hà Lan.
Vụ án Đông Greenland giữa Na Uy và Đan Mạch (1931-1933)
Greenland là lãnh thổ cực Bắc trái đất, khoảng 4.650km2, 81% diện tích có băng phủ không thể sinh sống. Năm 1931, Na Uy chiếm và tuyên bố chủ quyền phía Đông Greenland không có người ở vì cho rằng đó là đất vô chủ. Đan Mạch đòi chủ quyền với toàn bộ Greenland trong khi chỉ chiếm hữu thực sự một phần diện tích của đảo. Năm 1933 hai nước đồng ý giải quyết tranh chấp tại Pháp viện thường trực quốc tế.
Lập luận của các bên: Na Uy cho rằng họ đã chiếm Đông Greenland là vùng đất vô chủ. Đan Mạch đã chứng minh chủ quyền với toàn bộ đảo không bằng hành vi chiếm hữu cụ thể nào mà là một loạt các sắc lệnh, luật thực thi pháp luật, hành chính trải dài khoảng 1.000 năm trước, đặt Greenland dưới sự điều hành của họ, quy định lưu thông hàng hải quanh Greenland, việc săn bắt và đánh cá, cấp giấy phép cho các quốc gia và người đến thăm phía đông đảo, các hoạt động thám hiểm..., quá trình đó trong hòa bình.
Phán quyết của Tòa:Việc xác lập chủ quyền đối với vùng đất không thể sinh sống chỉ cần quốc gia có ý định chiếm hữu và thực hiện một số hoạt động mang tính quyền lực nhà nước là đủ. Tòa xác định Đan Mạch đã có ý định và thẩm quyền quốc gia đã nêu là đầy đủ để có chủ quyền với toàn bộ Greenland. Với những khu vực không thể sinh sống thì yêu cầu để duy trì chủ quyền trên lãnh thổ là ít nghiêm ngặt hơn so với các khu vực có thể qua lại và đông dân cư. Đây chính là sự thay đổi nhất định trong nội dung của chiếm hữu thật sự khi nó được vận dụng trong một điều kiện lãnh thổ mới.
Vụ án đảo Clipperton giữa Pháp và Mê-xi-cô năm 1931
Clipperton rộng khoảng 9km2, là đảo san hô không thể sinh sống ở phía Đông Thái Bình Dương. Pháp và Mê-xi-cô đồng ý giải quyết tranh chấp năm 1909, đến năm 1931, trọng tài mới đưa ra phán quyết về vụ việc.
Lập luận của các bên:Mê-xi-cô cho rằng, Tây Ban Nha đã phát hiện ra đảo trước Pháp rất lâu và để lại thừa kế cho họ. Pháp lập luận phát hiện ra Đảo năm 1858 và tuyên bố chủ quyền mà không có sự phản đối nào, sau đó khai thác phân chim, tàu chiến ghé qua với mục đích khẳng định chủ quyền.
Phán quyết của Tòa: Đối với lãnh thổ không thể sinh sống được thì không cần thiết sự hiện diện thường xuyên các hoạt động mang tính quyền lực nhà nước tại đó, tại thời điểm quốc gia chiếm hữu xác lập chủ quyền mà không có tranh chấp thì việc xác lập chủ quyền coi như đã hoàn thành. Giống như Greenland, đối với lãnh thổ không thể sinh sống như Clipperton thì những đòi hỏi khắt khe của nguyên tắc chiếm hữu thật sự hầu như không được vận dụng, ngoại trừ yếu tố hòa bình; hoặc là nó được vận dụng ở mức tối thiểu nhất - không đòi hỏi việc thực hiện quyền lực nhà nước liên tục, thường xuyên trên lãnh thổ chiếm hữu.
Vụ án Minquies và Ecrehos giữa Anh và Pháp (1951-1953)
Minquies và Ecrehos là hai nhóm đảo nhỏ và đảo đá, nằm giữa đảo British Channel thuộc Jersey của Anh và bờ biển Pháp, trong đó một số đảo có thể sinh sống, còn lại phần lớn là những đảo đá. Năm 1951, Anh và Pháp yêu cầu Tòa xem xét bên nào có bằng chứng chủ quyền thuyết phục hơn để có quyền sở hữu với hai nhóm đảo.
Lập luận của các bên:Pháp có Hiệp ước nghề cá xác định vùng hợp tác bao gồm hai nhóm đảo, các tiểu bang ở Jersey, Anh bị cấm đánh bắt và hạn chế nhập cảnh vào Ecrehos do hai Chính phủ trao đổi ngoại giao, một phần Ecrehos bị đánh dấu trên hải đồ là ở ngoài vùng nước Jersey và bị coi là đất vô chủ, Pháp đã gửi văn bản tới Anh khẳng định chủ quyền ở Ecrehos; Minquies là vùng phụ cận thuộc đảo Chausey của Pháp, các nhà cầm quyền Pháp trao đổi thư từ liên quan tới đơn xin sử dụng đất của công dân Pháp ở Minquies, Pháp đảm nhận về điện năng và phao cứu sinh cho Minquies mà Anh không phản đối; một ngôi nhà được dựng lên trên một đảo nhỏ ở Minquies với sự trợ giúp của thị trưởng Pháp; Chính phủ Pháp cũng tới thăm Minquies. Bằng chứng của Anh là Tòa án Jersey đã xét xử tội phạm ở Ecrehos trong vòng một thế kỷ (1826-1921); xét xử những vụ đắm tàu, hồ sơ về vụ ám sát người của phái đoàn ngoại giao được tìm thấy ở Minquies và việc dựng nhà, lều trại trên những đảo nhỏ, chính quyền Jersey đã thu thuế và cho đăng ký hợp đồng nhà đất, đăng ký tàu bè, lập trạm hải quan ở Ecrehos, hợp đồng và thuế bất động sản ở Minquies cũng được đăng ký và thanh toán ở Jersey; Anh có sắc lệnh của kho bạc tác động đến Ecrehos, sự viếng thăm của các quan chức Anh tới Ecrehos.
Phán quyết của Tòa: Tòa án nhận thấy hoạt động trao đổi thư từ, đặt phao cứu sinh hay một số hành vi tương tự không được coi là Pháp đã thực thi quyền lực nhà nước đầy đủ với các đảo. Trong khi Anh đã thực thi các chức năng nhà nước về tư pháp, hành chính để quản lý các đảo trong thời gian dài, nó chứng tỏ Anh đã thực thi quyền lực nhà nước đối với các đảo một cách thực sự và đầy đủ hơn Pháp, vậy nên, chủ quyền hai nhóm đảo thuộc Anh.
Vụ tranh chấp biên giới trên bộ và trên biển giữa Cameroon và Nigeria năm 2002
Biên giới trên biển và trên bộ vùng hồ Chad đã được phân định từ thời thực dân giữa Anh, Pháp, Đức. Nhưng Cameroon và Nigeria đã bất đồng khi áp dụng đường biên giới đó. Năm 1994, Cameroon đệ đơn đến Tòa án Công lý quốc tế, khởi đầu cho việc giải quyết tranh chấp.
Lập luận của các bên:Cameroon khẳng định chủ quyền vùng hồ Chad do kế thừa từ thời thực dân, họ đã thực thi chủ quyền bằng các cuộc viếng thăm của quan chức địa phương, bầu cử, duy trì pháp luật và an ninh, họp mặt các trưởng làng, thu các loại thuế; từ năm 1987, Cameroon đã phản đối Nigeria dùng quân đội tiếp quản trạm huấn luyện nghề cá và tìm cách quản lý hành chính khu vực tranh chấp; phản đối Nigeria vi phạm nguyên tắc estoppel vì trước kia đã công nhận đường biên giới từ thời thực dân và giao phó cho Ủy ban cắm mốc, coi hành vi của Nigeria là xâm chiếm, vi phạm luật pháp quốc tế. Nigeria chỉ công nhận một số nội dung phân định ranh giới từ thời thực dân, không công nhận sự ràng buộc với đề xuất của Ủy ban cắm mốc giới, khẳng định chủ quyền bằng chiếm hữu thật sự thông qua hoạt động hỗ trợ y tế - giáo dục, quản lý, giám sát, thu thuế các làng ở vùng hồ Chad mà không có phản đối từ Cameroon.
Phán quyết của Tòa:Đường biên giới thời thực dân vẫn giữ nguyên hiệu lực. Cameroon đã nắm giữ chủ quyền trước khi Nigeria thực thi chủ quyền, mặc dù họ không có hoạt động thường xuyên nhưng luôn tìm cách thực thi chủ quyền, cho dù có rất ít thành công, họ đã rõ ràng phản đối hành vi của Nigeria. Nigeria đã thua kiện cho dù đã thực thi quyền lực nhà nước trên lãnh thổ tranh chấp bởi nó không đáp ứng tiêu chí hòa bình của chiếm hữu thật sự.
Vụ tranh chấp đảo Pulau Ligitan và Pulau Sipadan giữa Malaysia và Indonesia năm 2002
Pulau Ligitan và Pulau Sipadan là hai đảo nhỏ không có dân cư sinh sống, giá trị kinh tế không lớn, tranh chấp từ năm 1969 do cả hai quốc gia đều viện dẫn quyền sở hữu từ thời phong kiến (hồi thế kỷ XVI), điều ước quốc tế thời thuộc địa, nhưng không được Tòa công nhận nên hai nước đã viện dẫnchiếm hữu thật sựtrước năm 1969 để khẳng định chủ quyền.
Lập luận của các bên:Indonesia viện dẫn báo cáo của tàu Hà Lan khẳng định hai đảo thuộc quyền sở hữu của Hà Lan, các cuộc điều tra thủy văn xung quanh hai đảo, cuộc viếng thăm của hải quân, ngư dân có truyền thống đánh bắt xung quanh hai đảo. Malaysia cho rằng thời thuộc địa, Anh đã thu thập, quản lý, kiểm soát trứng rùa trên đảo từ năm 1914, có pháp lệnh bảo tồn rùa, giải quyết tranh chấp liên quan đến thu thập trứng rùa, cấp phép cho tàu đánh cá xung quan đảo, xây hải đăng và trợ giúp đường biển cho hai đảo mà Indonesia không phản đối; sau thời thuộc địa, Malaysia đã luôn khẳng định chủ quyền trong quá trình đàm phán với Indonesia về thềm lục địa trong khi Indonesia không quan tâm đòi chủ quyền hai đảo, Malaysia cũng đã khai thác du lịch, giữ an ninh, môi trường cho Sipidan đến hiện tại, năm 1997, hai đảo là khu bảo tồn của Malayxia.
Phán quyết của Tòa:Indonesia không có hoạt động lập pháp đối với đảo, đạo luật năm 1960 và bản đồ kèm theo không đề cập đến hai đảo, chuyến đi của tàu Hà Lan được xác định là hoạt động chung của Hà Lan và Anh để chống cướp biển, việc đánh bắt cá chỉ là hoạt động tư nhân vì không có quy định của Chính phủ, Indonesia đã không thể hiện có ý định thiết lập chủ quyền. Malaysia đã điều tiết, kiểm soát trứng rùa, thực hiện kế hoạch dự trữ gia cầm cho quốc gia là hoạt động thẩm quyền hành chính nhà nước trên các đảo. Việc xây hải đăng chỉ dẫn giao thông thường không liên quan đến quyền lực nhà nước (Minquies), nhưng tiền lệ vụ tranh chấp giữa Qatar và Bahrain cho phép Tòa xác định hoạt động này là phù hợp với các đảo nhỏ. Bên cạnh đó là sự im lặng của Indonesia. Tòa cho rằng với hoạt động của Anh, Malaysia kế thừa đã bao gồm cả hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp, nó diễn ra trong thời gian dài, thể hiện ý định thực thi quyền lực nhà nước đối với hai đảo. Malaysia thắng kiện.
Vụ tranh chấp đảo Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks và South Ledge giữa Malaysia và Singapore năm 2008
Tranh chấp này tương tự như tranh chấp đảo Ligitan và Sipadan, nhưng điểm khác biệt là Tòa xác định quyền sở hữu nguyên gốc các đảo thuộc về Malaysia, nhưng Tòa lại trao chủ quyền cho Singapore bởi họ đã có một số hoạt động chiếm hữu thật sự như: Thám hiểm xác tàu đắm trong lãnh hải của đảo, thăm dò các vùng nước xung quanh đảo, có kế hoạch khai hoang các khu vực xung quanh đảo, tất cả các hoạt động này diễn ra trong sự im lặng của Nhà nước phong kiến Malaysia và hiện tại, thậm chí sau tháng 6/2003, thời điểm thỏa thuận đưa vụ việc ra giải quyết tại Tòa có hiệu lực, thì Malaysia mới phản đối những việc Singapore đã làm từ những năm 1980.
Có thể thấy rằng, nguyên tắc chiếm hữu thật sự luôn đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trải dài từ cuối thế kỷ XIX cho đến ngày nay. Nó được cơ quan tài phán quốc tế vận dụng một cách thật sự linh hoạt để đưa ra phán quyết chủ quyền với những lãnh thổ có điều kiện địa lý và tự nhiên khác nhau. Nguyên tắc chiếm hữu thật sự cũng hoạt động trong mối quan hệ tương thích với những quy định khác của luật quốc tế hiện đại để xác định và bảo vệ chủ quyền quốc gia, như: Nguyên tắc bình đẳng giữa các quốc gia, cấm sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, quy chế của các vùng biển, đảo trong luật biển…
2. Vấn đề xác lập chủ quyền của Nhà nước phong kiến Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa
Theo nhiều công trình nghiên cứu và tài liệu về chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa thì thời kỳ phong kiến Việt Nam có khoảng 30 tư liệu chứng minh chủ quyền của mình, gồm: (i) Bản đồ; (ii) Ghi chép của các sử gia là nhân vật quan trọng trong triều đình; (iii) Quốc sử Việt Nam bao gồm cả châu bản, chỉ thị, chiếu dụ của nhà vua; (iv) Sự thừa nhận chủ quyền Việt Nam của các nhà hàng hải, giáo sĩ phương Tây, người Trung Quốc.
Nhìn lại toàn bộ các chứng cứ chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa, khớp nối với cách vận dụng nguyên tắc chiếm hữu thật sự của cơ quan tài phán quốc tế, ta có thể thấy hành vi chủ quyền của Nhà nước phong kiến Việt Nam đã đáp ứng đầy đủ yêu cầu chiếm hữu thật sự về thụ đắc lãnh thổ. Cụ thể:
2.1. Chủ quyền thực thi trong hòa bình
Nhà nước phong kiến Việt Nam đã chiếm cứ các đảo mà không phải giao chiến với bất cứ quốc gia nào, cũng không phải đấu tranh để bảo vệ chủ quyền đó với bất cứ quốc gia nào, chủ quyền đó được sự thừa nhận của người phương Tây và cả người Trung Quốc, sự không quan tâm, không biết đến của Philippines, Malaysia và Brunei.
2.2. Nhà nước phong kiến Việt Nam đã thực hiện chủ quyền một cách thực sự và đầy đủ, thích đáng cả ở phương diện đối nội và đối ngoại
Về đối nội:Nhà nước Việt Nam đã sáp nhập các đảo vào một đơn vị hành chính là tỉnh Quảng Ngãi, lập ra và điều hành các đơn vị chuyên trách (đội Hoàng Sa, đội Bắc Hải) khai thác các giá trị kinh tế của các đảo, khảo sát, đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ, xây miếu, dựng bia ghi dấu chủ quyền (Quốc sử quán triều Nguyễn). Hoàng Sa, Trường Sa với đặc thù tự nhiên khắc nghiệt, không có dân cư sinh sống thường xuyên, các hải đội không thể công tác thường xuyên như ngày nay được, nên các hoạt động cấp lương bổng, thưởng phạt cho đội viên tham gia khai thác đảo, khảo sát, đo đạc 6 tháng/năm, vẽ bản đồ, thu thuế và bảo trợ ngư dân địa phương trở thành biểu hiện chủ quyền về mặt hành chính, tư pháp của Nhà nước phù hợp với các đảo, phù hợp với yêu cầu của luật quốc tế về duy trì quyền lực hành chính, tư pháp đối với các đảo.
Về đối ngoại:Các hải đội đã cứu giúp tàu bị nạn, trồng cây giúp tàu phát hiện có đảo để tránh gặp nạn, phúc đáp khi quan chức Trung Hoa giúp lính Vạn Lý Trường Sa gặp nạn. So với hoạt động chủ quyền của Pháp với đảo Clipperton và của Malaysia với các đảo Ligitan & Sipadan thì Việt Nam đã thực thi chủ quyền ở mức cao hơn hẳn khi mà điều kiện tự nhiên của các đảo là tương tự nhau, đặc biệt là không có một hành vi chủ quyền nào thực sự cạnh tranh lớn hơn thế. Việt Nam đã thực thi chủ quyền các đảo cả về danh nghĩa và trên thực tế.
Sự đầy đủ, thích đáng trong hành vi chủ quyền của Việt Nam đối với các đảo:Thời phong kiến chúng ta đã coi cả Hoàng Sa, Trường Sa là một nhóm đảo với tên gọi Bãi Cát Vàng hay Hoàng Sa, Đại Trường Sa, Vạn Lý Châu Sa. Nên chỉ cần chiếm các đảo chính, đảo lớn trong số đó là đã có thể thụ hưởng chủ quyền đối với cả Hoàng Sa và Trường Sa. Theo vụ án đảo Palmas, Thẩm phán Max Huber đã đưa ra và bảo vệ học thuyết tính thống nhất: Việc chiếm hữu đảo chính sẽ áp đặt cho các đảo phụ còn lại. Vụ án Đông Greenland, Đan Mạch đã được sở hữu toàn bộ Greenland khi mà họ chỉ thực thi quyền lực thực sự với một phần của đảo, phần Đông Greenland tranh chấp với Na Uy, Đan Mạch chỉ có ý chí chiếm hữu kèm theo một số hoạt động săn bắn, thám hiểm, cấp phép cho người đến thăm. Do điều kiện tự nhiên khắc nghiệt mà nhà vua Việt Nam không thể xây dựng bộ máy quản lý trên toàn các đảo Vạn Lý Châu Sa. Hoàng Sa ngày nay là khu vực có thể khai thác được lượng giá trị kinh tế nhiều hơn nên nhà vua đã lựa chọn hoạt động tập trung ở khu vực đó, coi đó là đơn vị đầu não của đơn vị hành chính Vạn Lý Châu Sa và vua Gia Long đã tuyên bố chủ quyền tại đó, giao cho đội Hoàng Sa quản lý trực tiếp, còn Trường Sa ngày này đội Hoàng Sa đã quản lý thông qua đội Bắc Hải, tiến hành thu thế, bảo trợ ngư dân của mình trước các ngư dân nước ngoài - sự bảo vệ tối thiểu trước sự can thiệp của các công dân nước ngoài với lãnh thổ quốc gia. Như vậy, Nhà nước Việt Nam đã thực thi chủ quyền đối với toàn bộ Vạn Lý Châu Sa (gồm cả Hoàng Sa, Trường Sa) trong khả năng có thể và phù hợp với điều kiện tự nhiên của các đảo. Việt Nam biết rõ Đại Trường Sa có khoảng 130 đảo, hình thể xa, rộng và thể hiện ý chí “không kể là đảo nào, bãi cát nào, phàm thuyền đến nơi” là phải dựng bia, đo đạc vị trí, thủy trình - tức ý chí luôn vươn tới chiếm hữu tất cả các đảo trong hình thể xa rộng và hiểm yếu đó, ý chí đó đã được thực hiện trong thực tế. Nội dung này đã đạt đến mức độ đủ sự thể hiện ý định chiếm hữu của một quốc gia và các biểu hiện của hoạt động nhà nước.
Thực thi chủ quyền liên tục:Chủ quyền của Việt Nam đối với các đảo được chứng minh từ thời các chúa Nguyễn, từ thế kỷ XVII, sau đó được duy trì liên tục đến tận giữa thế kỷ XIX. Việc thực thi quản lý nhà nước chỉ được tiến hành định kỳ - theo mùa khoảng 6 tháng/hàng năm là phù hợp với điều kiện tự nhiên của các đảo. Thực tế ta cũng thấy có những gián đoạn ngắn trong việc thực thi chủ quyền này, như thời kỳ chuyển giao quyền lực nhà Lê sang nhà Tây Sơn, nhà Tây Sơn sang nhà Nguyễn, cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp. Trong điều kiện đất nước không ổn định, Nhà nước chưa thể ưu tiên cho việc khai thác, quản lý các đảo. Nhưng sau khi ổn định đất nước việc thực thi chủ quyền các đảo lại được tiếp tục, không những thế, mà sau thời Tây Sơn, vua Gia Long đã thực thi chủ quyền rõ ràng, chính thức và vươn rộng hơn; Pháp với tư cách chính quyền bảo hộ cũng thực thi chủ quyền các đảo rõ ràng mạch lạc hơn. Sự gián đoạn này chỉ tạm thời ngưng lại việc thực thi chủ quyền trên thực tế mà không hề mất đi ý định chiếm hữu, đồng thời cũng không có hành vi thực thi chủ quyền thực sự nào cạnh tranh với Việt Nam. So sánh với Trung Hoa thì khác hẳn, cuối thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI họ đã ban hành chính sách cấm và trừng phạt hình sự đối với hành vi đóng mới tàu biển, xưởng đóng tàu bị xóa bỏ, đây mới là sự từ bỏ dứt khoát nếu như đã có chủ quyền lãnh thổ. Trong các án lệ cũng có thể thấy những khoảng trống tương đối dài việc thực thi chủ quyền nhưng không bị coi là mất quyền sở hữu. Sự gián đoạn và không liên tục ngắn ngủi trong quá trình thực thi chủ quyền của Việt nam sẽ được đánh giá là tương thích với hoàn cảnh.
Dưới góc nhìn của một số án lệ, nghiên cứu cách thức vận dụng nguyên tắc chiếm hữu thật sự về xác lập chủ quyền lãnh thổ của các quốc gia trên thế giới có thể thấy, Nhà nước phong kiến Việt Nam đã thực thi chủ quyền với Hoàng Sa và Trường Sa trong suốt gần 3 thế kỷ, từ thời các Chúa Nguyễn đến các vua nhà Nguyễn, bằng ý chí chiếm hữu, bằng các hoạt động kinh tế, hành chính, tư pháp: Khai thác, tuyên bố chủ quyền, đo đạc vẽ bản đồ, sáp nhập các đảo vào một đơn vị hành chính quốc gia, lập đồn trại thu thuế, thưởng - phạt cho lính thực thi nhiệm vụ chủ quyền và những quan hệ đối ngoại khác. Hành vi xác lập chủ quyền của Nhà nước phong kiến Việt Nam đã rõ ràng đáp ứng các yêu cầu về thụ đắc lãnh thổ bằng chiếm hữu thật sự, với những tiêu chí thực thi chủ quyền: Đối với lãnh thổ vô chủ, hòa bình, thực sự, đầy đủ thích đáng với điều kiện tự nhiên của lãnh thổ và diễn ra liên tục.
ThS. Nguyễn thị Thanh
Đại học Công đoàn
Tài liệu tham khảo
1. GS.TS. Monique Chemillier - Gendreau (1998),Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội;
2.Nguyễn Đình Đầu (2007),Hoàng Sa-Trường Sa đích thực là của Việt Nam,Tạp chí Xưa và Nay(298);
3. Nguyễn Thị Thanh (2011),Căn cứ đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa,Luận văn Thạc sỹ Luật học, tại Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội;
4. Vũ Phi Hoàng (1988),Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là bộ phận lãnh thổ Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân;
5. Lưu Văn Lợi (1995),Cuộc tranh chấp Việt - Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa,Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội;
6. Nguyễn Nhã (2002),Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Hoàng Sa, Luận án Tiến sĩ sử học Việt Nam, Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh - Đại học khoa học xã hội và nhân văn;
7. Nguyễn Nhã,Cơ sở pháp lý xác lập chủ quyền Việt Nam tại Hoàng Sa,http://vietbao.vn, ngày 07/12/2007;
8. Nguyễn Nhã, Nguyễn Đình Đầu, Lê Minh Nghĩa, Từ Đặng Minh Thu, Vũ Quang Việt (2008),Hoàng Sa Trường Sa là của Việt Nam, Sưu tầm những bài báo và tư liệu mới về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Nxb. Trẻ, Hà Nội;
9. Marwyn S.Samuels (1982),Tranh chấp biển đông, Methuen, NewYork and London;
10. Nguyễn Quốc Thắng, (2008)Hoàng Sa-Trường Sa lãnh thổ Việt Nam nhìn từ công pháp quốc tế, Nxb.Tri Thức;
11. Nguyễn Toàn Thắng (2009), “Vấn đề thụ đắc lãnh thổ trong luật quốc tế”, Chuyên đề thuộc đề tài nghiên cứu cấp nhà nước:Cơ sở pháp lý về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Trường sa – Hoàng sado Trung tâm Luật Biển và Hàng hải Quốc tế chủ trì;
12. Từ Đặng Minh Thu (1998),Chủ quyền trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, Thử phân tích lập luận của Việt Nam và Trung Quốc,Tham luận đọc tại Hội thảo hè “Vấn đề Tranh chấp biển Đông” tại New York City, http:// nghiencuubiendong.vn, 01/12/2010;
13.Tuyển tập các phán quyết Trọng tài quốc tế, Tập XXVIII, tr. 121-123, tập XI, tr. 21-23, Tập II, tr. 1110-1111;
14. Niên giám đại cương về luật quốc tế, 1935, tr. 165;
15.Tuyển tập các phán quyết của Pháp viện thường trực quốc tế, serie A/B, N° 53, tr.46, 63-64;
16.Tuyển tập các phán quyết của Toà công lý quốc tế,1953, tr. 47-73; 1975, tr. 39, Para 79; 2002, tr. 303-458, Para 48,53,62-70, tr. 625-686; 2008, tr.1-81;
17.www.icj– cij.org
Theo http://tcdcpl.moj.gov.vn/
Minh Nguyệt (st)