Thứ hai, 23/12/2024

Giữ vững lòng tin chính trị của nhân dân với Đảng là mục tiêu phấn đấu của Đảng, cũng là cơ sở để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân vững bước dưới sự lãnh đạo của Đảng vượt qua mọi thử thách, xây dựng thành công nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Những yếu tố cấu thành lòng tin chính trị của nhân dân với Đảng

Bất kỳ một đảng phái chính trị nào, điều kiện để giành quyền lãnh đạo là phải đưa ra được cam kết chính trị của mình trước những người ủng hộ. Đó chính là những mục tiêu hoạt động của đảng mà khi được hiện thực hóa sẽ đem lại quyền lợi gì cho những người ủng hộ mình; là những biện pháp để biến mục tiêu đó thành hiện thực… Những cam kết chính trị đầu tiên là những quyền lợi vật chất, đáp ứng cho những yêu cầu sống của đông đảo nhân dân, nhưng cũng luôn bao hàm những giá trị tinh thần, hướng tới những điều tốt đẹp, nhân văn, phù hợp với tiến trình phát triển của xã hội loài người.

Với Đảng Cộng sản Việt Nam, cam kết chính trị chính là các cương lĩnh của Đảng qua các thời kỳ cách mạng, từ cách mạng giải phóng dân tộc hào hùng trước đây, cho đến thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ khi cả nước thống nhất đến nay. Hiện nay, với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), cam kết chính trị cô đọng nhất của Đảng với nhân dân, phải thực hiện trong thời gian dài chính là, xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để hiện thực hóa cam kết chính trị này, các kỳ Đại hội Đảng đồng thời đưa ra và nỗ lực hiện thực hóa các cam kết chính trị ở từng lĩnh vực, mà Đại hội XII của Đảng lại một lần nữa khẳng định là: …đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại… vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Niềm tin chính trị của quần chúng với một chính đảng được hình thành khi cam kết chính trị của chính đảng được hiện thực hóa thành những kết quả thực tế, và được khẳng định trong quãng thời gian tương đối lâu dài, đồng thời bao hàm những đặc điểm chính trị tương đối ổn định. Đó có thể là xu thế chính trị mang tính tiên tiến của chính đảng, là sự hấp dẫn về nhân cách của đội ngũ lãnh đạo của đảng, là sự trung thành với những cam kết chính trị được đảng đưa ra với những người ủng hộ mình… Niềm tin chính trị được hình thành từng bước, bồi đắp dần qua thời gian, với sự nỗ lực của các thế hệ chính trị gia, thành viên của tổ chức chính trị. Và, niềm tin chính trị dần mất đi là do những thất bại trong việc thực hiện các cam kết chính trị, một cách từ từ qua thời gian. Niềm tin chính trị có thể mất một cách nhanh chóng khi tổ chức chính trị đó phạm phải những sai lầm mang tính bản chất nhất, hoặc do những lỗi lầm về mặt nhân cách của những lãnh tụ chính trị.

Lòng tin chính trị là sự phát triển của niềm tin chính trị lên một mức cao hơn. Nó có tính ổn định hơn so với niềm tin. Để từ niềm tin chính trị trở thành lòng tin chính trị, đòi hỏi sự nỗ lực cao độ, cố gắng liên tục của các thế hệ đảng viên và lãnh đạo của đảng chính trị. Và cũng như đối với niềm tin chính trị, sự suy giảm lòng tin chính trị đối với đảng chính trị cũng không ngoài những nguyên nhân căn bản, như không thực hiện được các cam kết chính trị, người lãnh đạo đảng chính trị không giữ vững được tư cách, hình ảnh của mình trong lòng nhân dân.

Các thành tố nói trên có quan hệ vô cùng khăng khít, ảnh hưởng qua lại một cách trực tiếp tới xu hướng vận động, phát triển của nhau. Niềm tin chính trị và lòng tin chính trị xuất phát từ các cam kết chính trị cùng với quá trình hiện thực hóa, giữ vững và phát triển các cam kết chính trị. Thực hiện cam kết chính trị cũng song hành với quá trình xây dựng và củng cố niềm tin chính trị, lòng tin chính trị trong lòng quần chúng. Niềm tin và lòng tin chính trị phải được nuôi dưỡng và vun đắp bằng sự phấn đấu, nỗ lực đóng góp không mệt mỏi của đội ngũ đảng viên thực hiện cam kết chính trị; phải được tiếp thêm sinh khí bằng những phong trào, chương trình hành động thực tế; phải được “xâu chuỗi”, dẫn dắt bởi những hành động tập trung giải quyết những bức xúc của nhân dân, được thu hút bởi dũng khí chính trị của các lãnh tụ, người đứng đầu.

Bất kỳ một chính đảng nào đều phải đặt ra mục tiêu giành được lòng tin chính trị của đông đảo quần chúng. Đảng Cộng sản Việt Nam cũng không ra ngoài quy luật đó. Với các cam kết chính trị được đưa ra, dần dần được hiện thực hóa qua những kết quả đạt được, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xây dựng vững chắc vị trí của mình trong lòng dân tộc. Đó chính là khi niềm tin chính trị của quần chúng nhân dân với Đảng đã được khẳng định. Niềm tin chính trị được khẳng định vững chắc bằng thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến trường kỳ giành độc lập cho dân tộc, kết thúc bằng chiến thắng ngày 30-4-1975. Ý nghĩa của chiến thắng đó không chỉ được khẳng định và ghi nhận bởi dân tộc Việt Nam, mà còn bởi các dân tộc yêu chuộng hòa bình và các lực lượng tiến bộ trên toàn thế giới. Niềm tin chính trị đã trở thành lòng tin chính trị của dân tộc với Đảng. Bắt đầu từ năm 1986 cho đến nay, đất nước ta tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện. Những kết quả to lớn của tiến trình 30 năm đổi mới được Đại hội XII của Đảng khẳng định: “qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa… vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao”(1).

Lòng tin chính trị của nhân dân với Đảng qua các giai đoạn

Trong thời kỳ lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xây dựng được lòng tin chính trị trong lòng dân tộc. Lòng tin chính trị đó được xây dựng bằng bao hy sinh, phấn đấu của các thế hệ đảng viên, từ khi Đảng còn hoạt động bí mật, bằng uy tín cách mạng cũng như nhân cách cao cả của các lãnh tụ của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Từ thực tế cách mạng Việt Nam có thể thấy, vai trò và uy tín của người đứng đầu là vô cùng quan trọng với việc Đảng giữ vững được lòng tin của nhân dân. Với việc bôn ba cách mạng, hy sinh cả xương máu và hạnh phúc cá nhân cho sự nghiệp cách mạng, những thế hệ lãnh đạo cách mạng tiền bối, mà đại diện tiêu biểu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giành được lòng tin yêu và kính trọng của quần chúng, qua đó củng cố và giữ vững lòng tin với Đảng của nhân dân.

Trong tiến trình đổi mới, đã có những khuyết điểm xuất hiện, có khả năng ảnh hưởng tới lòng tin chính trị của nhân dân với Đảng, đã được Đảng sớm nhận ra, với việc Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đại hội VII của Đảng chỉ rõ 4 nguy cơ có ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự phát triển của đất nước, tới niềm tin của nhân dân với Đảng… Sau đó Đảng đã tiến hành xây dựng, chỉnh đốn Đảng bằng Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay. Với tinh thần nghiêm túc cộng sản, qua mỗi kỳ đại hội, Đảng đều đặt ra vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng, như khẳng định: “Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là công việc rất khó, rất phức tạp… nhưng không thể không làm. Đảng ta đã làm, làm nhiều, làm thường xuyên và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng”(2). Thể hiện tập trung nhất của quyết tâm xây dựng, chỉnh đốn Đảng gần đây chính là Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, với việc ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TƯ, ngày 16-01-2012, “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Những thành quả của tiến trình đổi mới, cùng dũng khí tiến hành công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng chính là cơ sở để lòng tin chính trị của nhân dân với Đảng ngày càng bền vững.

Giai đoạn hiện nay, cũng không thiếu những tấm gương cộng sản ở mọi cương vị, bằng lời nói, bằng hành động, bằng quyết tâm chính trị bền bỉ, sắt đá đã góp phần giữ vững lòng tin chính trị của quần chúng nhân dân với Đảng, đồng thời được nhân dân tin yêu, kính trọng.

Tuy nhiên, cũng chính trong giai đoạn hiện nay việc giữ vững lòng tin chính trị của dân tộc với Đảng gặp phải vô vàn thách thức, khó khăn, cả từ nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan, như Hội nghị Trung ương 4 khóa XI đã thẳng thắn chỉ rõ: “Có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”(3). Muốn khắc phục được những yếu kém, khuyết điểm đó đòi hỏi Đảng phải nỗ lực, mạnh mẽ, quyết tâm gấp bội, nhất là trong công tác xây dựng Đảng, để lãnh đạo nhân dân xây dựng thành công nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc hiện nay, đông đảo cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân vẫn tin tưởng vào vai trò lãnh đạo của Đảng. Hội nghị Trung ương 4 khóa XI đã phát động cuộc xây dựng và chỉnh đốn Đảng với quyết tâm cao độ và niềm tin mãnh liệt chính là một trong những biện pháp để Đảng tích cực giữ gìn và bồi đắp lòng tin chính trị trong lòng dân tộc.

Nhưng có thể thấy rõ, những vấn đề có thể ảnh hưởng thuận hay nghịch tới lòng tin chính trị của nhân dân với Đảng chính là, quyết tâm chính trị đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, những biểu hiện của lợi ích nhóm, bè phái, tham nhũng về cơ chế, chính sách…; những thành quả trong phát triển kinh tế, xây dựng văn hóa, giữ ổn định xã hội… bền vững đến đâu.

Chính vì vậy, cùng với tiếp tục lãnh đạo thực hiện có kết quả các mục tiêu về phát triển kinh tế, xây dựng văn hóa, ổn định xã hội, thì việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng gắn với triển khai thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TƯ của Bộ Chính trị khóa XII, về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh sâu rộng trong toàn xã hội chính là để khẳng định vững chắc vị trí của Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện nay,

Để giữ vững lòng tin chính trị của nhân dân với Đảng

Thứ nhất, Đảng phải thực hiện bằng được các cam kết chính trị của mình với dân tộc, trên các vấn đề cơ bản về kinh tế, chính trị, văn hóa, an sinh xã hội…, như các mục tiêu mà Đại hội XII của Đảng đề ra, đó là: “xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh…; phát triển kinh tế nhanh, bền vững… Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; … bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ…”(4). Theo đó, xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững độc lập và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ chính là cam kết chính trị trực tiếp nhất, quan trọng nhất trong số các cam kết chính trị, đồng thời cũng là các biện pháp để hiện thực hóa những cam kết đó.

Về kinh tế, “phát triển nhanh và bền vững… giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế… Tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nâng cao hiệu lực, hiệu quả…, năng lực quản lý của Nhà nước và năng lực quản trị doanh nghiệp”(5).

Đây là biện pháp quan trọng nhất, cơ bản nhất, xuyên suốt và đòi hỏi Đảng luôn thực hiện liên tục một cách có hiệu quả. Kinh tế phát triển lành mạnh, ổn định, bền vững là cơ sở để nâng cao tiềm lực đất nước, từ đó xây dựng văn hóa, phát triển con người cũng như bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ một cách có hiệu quả, cũng chính là khẳng định năng lực cầm quyền của Đảng. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, có năng lực đáp ứng thách thức từ sự vận động của thế giới hiện nay là yêu cầu bắt buộc, không thể thoái thác, là đòi hỏi nội sinh của Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng đại diện cho quyền lợi của không chỉ giai cấp mà cho cả dân tộc. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, mạnh mẽ triển khai các chủ trương, đường lối của Đảng trên các lĩnh vực, qua đó góp phần thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc trong thực tế xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam khoa học, hiện đại, với con người Việt Nam phát triển toàn diện chính là “nền tảng tinh thần quan trọng”, là “tấm hộ chiếu” của dân tộc Việt Nam trong giao lưu, hội nhập quốc tế.

Thứ hai, Đảng phải thực hiện thường xuyên, nghiêm túc công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng, bảo vệ và sử dụng cho được những người đứng đầu xứng đáng ở mỗi vị trí công tác nói chung, người đứng đầu cao nhất nói riêng. Đây là sự giữ gìn các giá trị cốt lõi của Đảng, điều làm nên sức sống của Đảng trong lòng dân tộc. Do đó, biện pháp này đòi hỏi được quan tâm thích đáng, được thực hiện thường xuyên, liên tục trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng của Đảng.

Đánh giá năng lực cầm quyền của Đảng không chỉ ở những thành quả trên lĩnh vực phát triển kinh tế, văn hóa, an sinh xã hội, bảo vệ Tổ quốc… mà còn từ hình ảnh của Đảng trong suy nghĩ của quần chúng nhân dân, thể hiện ở uy tín của những đồng chí lãnh đạo của Đảng trên các lĩnh vực, ở các cấp, các ngành, các địa phương.

Hiện nay, với sự đa dạng, phong phú của các phương tiện thông tin đại chúng, mỗi lời nói, hành động của đội ngũ lãnh đạo, các quyết sách được đưa ra đều góp phần tạo nên ảnh hưởng không nhỏ tới uy tín của Đảng, tới lòng tin của nhân dân. Từ đánh giá về một lãnh đạo, có thể đưa đến những suy xét về cả một tập thể; hoặc ngược lại. Chính vì vậy, cần thiết phải xây dựng được đội ngũ cán bộ lãnh đạo của Đảng, trước hết là ở cấp cao, phải thật sự đại diện xuất sắc cả về năng lực, phẩm chất trong công việc, đồng thời phải là những tấm gương tiêu biểu trong phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Muốn vậy, một trong những nội dung quan trọng chính là “xây dựng và thực hiện tốt các quy định để phát huy vai trò gương mẫu trong rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách… công tác của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị”(6). Chính việc “thực hiện nghiêm túc” Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay, đã đưa đến kết quả bước đầu đáng ghi nhận như Đại hội XII của Đảng đã nhận định: “Nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã chú trọng nâng cao tinh thần trách nhiệm, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn…; nghiêm khắc với mình hơn…; bước đầu tự sửa chữa khuyết điểm, tự điều chỉnh hành vi… trong công tác và trong cuộc sống của mình, của gia đình, vợ, chồng, con và người thân”(7).

Thứ ba, lãnh đạo xây dựng năng lực tổng hợp của chính quyền các cấp. Chính quyền các cấp không chỉ điều hành tốt việc hiện thực hóa các chủ trương, đường lối của Đảng trong phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững an ninh, trật tự; mà còn phải phản ứng kịp thời, giải quyết có hiệu quả các sự kiện có ảnh hưởng lớn đến dư luận trong nước và ngoài nước, ảnh hưởng đến sự ổn định xã hội. Đây chính là năng lực tổng hợp của chính quyền, thể hiện nghệ thuật cầm quyền của Đảng trong thời kỳ hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nếu hai biện pháp cơ bản trên có thể coi là có tính “chiến lược”, ổn định xuyên suốt trong công tác lãnh đạo của Đảng, thể hiện mục tiêu phấn đấu và bản chất của Đảng ta: vì lợi ích của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân; thì biện pháp này vừa có tính “chiến thuật” trong đáp ứng với những vận động của thực tế, vừa thể hiện rõ bản chất “của dân, do dân, vì dân” của Nhà nước Việt Nam; đồng thời, biện pháp và kết quả của việc điều hành của chính quyền ảnh hưởng trực tiếp tới hình ảnh của Đảng, tới niềm tin chính trị của nhân dân với Đảng trong những sự việc cụ thể, vì chính quyền các cấp trực tiếp tiếp xúc hằng ngày, hằng giờ với nhân dân. Nhân dân đánh giá Đảng chính từ việc quản lý hằng ngày của chính quyền cơ sở, cả từ ưu điểm cũng như khuyết điểm. Do đó, Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: “Kịp thời kiểm soát và xử lý các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội. Đẩy mạnh các giải pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội; giảm thiểu tai nạn giao thông; bảo đảm an toàn xã hội, an ninh con người”(8).

Mọi quyết định của chính quyền các cấp đưa ra có thể làm phát sinh nhiều luồng ý kiến đánh giá, những phản ứng nhiều chiều, có thể ảnh hưởng trực tiếp đến vị thế và hình ảnh của Đảng trong quần chúng nhân dân. Do vậy, trước những sự việc nảy sinh trong thực tế, chính quyền phải trên cơ sở pháp luật, cân nhắc tất cả các mối quan hệ, những vấn đề về quyền lợi của các đối tượng liên quan, nhanh chóng đưa ra được những biện pháp xử lý thích hợp, sẽ hạn chế được những hệ lụy không tốt có khả năng phát sinh./.

------------------------------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 65-66

(2) Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, tr. 17

(3) Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Sđd, tr. 21-22

(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 19-20

(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 77

(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 203

(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 183

(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 135

ThS. Nguyễn Hoàng Việt

Theo Tạp chí Cộng sản

Kim Chi (st)

Bài viết khác: