Bác Hồ không phải là nhà thơ làm thơ cách mạng mà là một nhà cách mạng làm thơ, bởi vậy với Người, văn thơ là một phương tiện để tuyên truyền, vận động quần chúng đứng lên làm cuộc đổi đời, giành cơm no áo ấm. Từ những ngày đầu hoạt động trên đất Pháp cho tới giờ phút ngồi viết bản Di chúc thiêng liêng, Bác Hồ luôn dùng ngòi bút sắc bén, đa dạng, rất tài hoa của mình để viết nên bao tác phẩm bất hủ với nhiều thể loại từ báo chí, chính luận, tới văn, thơ, kịch… Riêng lĩnh vực thơ, Bác viết rất nhiều, đáng chú ý là Người rất thành thục các thể Đường thi và thơ dân tộc. Trong thể lục bát, chúng ta đã được thưởng thức nhiều bài thơ đậm đà tình cảm của Người với quê hương, đất nước và con người Việt Nam suốt bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi muốn đề cập tới một bài thơ lục bát dài của Bác, đó là tác phẩm Lịch sử nước ta.
Vào khoảng thời gian cuối năm 1941, đầu năm 1942, sau khi Nhật vào Đông Dương, dân ta rơi vào cảnh “một cổ hai tròng” vô cùng khốn đốn. Trong bối cảnh đó, Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ VIII đã nêu rõ “Trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Chính trong không khí sôi sục đó, Hồ Chí Minh đã tranh thủ thời gian viết nên bài thơ dài Lịch sử nước ta nhằm mục đích nhắc lại truyền thống vẻ vang của cha ông và kêu gọi toàn dân đoàn kết, đứng lên đấu tranh giành độc lập.
Bài thơ gồm 208 câu lục bát; tiếp sau đó là niên biểu nước ta được Người đặt dưới tên gọi Những năm quan trọng, gồm 30 cột mốc, bắt đầu từ Hồng Bàng – năm 2879 trước Tây lịch và kết thúc là cái nhìn đầy tính dự báo tài tình của lãnh tụ cách mạng: Việt Nam độc lập – 1945.
Lịch sử nước ta do Việt Minh tuyên truyền bộ xuất bản lần đầu vào tháng 2-1942, tại căn cứ Cao Bằng. Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua nhưng tinh thần của bài thơ vẫn tươi rói trong lòng bạn đọc. Mỗi lần đọc lại, ta lại thấy dạt dào tình yêu nước được nâng lên từ tấm lòng của Bác qua những vần thơ vừa giản dị, vừa sâu lắng như chính đó là hồn dân tộc từ ngàn xưa nhắn gọi.
Mở đầu tác phẩm, Bác viết:
Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.
Đó chính là tâm huyết của nhà thơ trước một vấn đề tưởng ai cũng biết nhưng thực ra cho tới hôm nay, cũng không hẳn như vậy, bởi có người vẫn mơ hồ, lẫn lộn lịch sử, thậm chí không ít người hiểu biết lịch sử của một quốc gia nào đó qua phim ảnh hơn lịch sử chính dân tộc mình; chưa nói hồi bấy giờ, dân ta còn lạc hậu, phần lớn mù chữ thì việc nắm lịch sử nước nhà không phải chuyện dễ dàng. Từ cách nhìn dân ta phải “tường gốc tích nước nhà“, Bác đã lần lượt kể về bốn ngàn năm “Tổ tiên rực rỡ“, bắt đầu với “Hồng Bàng là tổ tiên ta“. Dằng dặc suốt trường kỳ hình thành của dân tộc trước công nguyên, tác giả chọn nêu hình ảnh Phù Đổng, người anh hùng thần thoại “dẹp loài vô lương” cứu nước. Kể từ năm 40 sau công nguyên trở đi, dồn dập có biết bao anh hùng đứng lên thay nhau chống ngoại xâm, chủ yếu là các thế lực đế quốc Trung Hoa.
Nước Tàu cậy thế đông người
Kéo quân áp bức giống nòi Việt Nam
Quân Tàu nhiều kẻ tham lam
Dân ta há dễ chịu làm tôi ngươi?
Dù bao phen thất bại nặng nề nhưng chết nết không chừa, kẻ thù truyền kiếp luôn tìm cách thôn tính, lược đoạt, muốn biến nước ta thành một thứ quận huyện của chúng. Nhưng dân ta là dân tộc anh hùng nên đâu chịu cúi đầu. Hai Bà Trưng là tấm gương tiết liệt “Ra tay khôi phục giang sơn / Tiếng thơm đài tạc đá vàng nước ta“. Tiếp đó là một bậc nữ lưu tuổi đôi mươi gan vàng dạ sắt khởi binh đánh giặc. Đó là Triệu Ẩu, người con xứ Thanh “khởi binh cứu nước” từng “đánh đông, dẹp bắc” khiến kẻ thù mất vía.
Lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta được tiếp nối với Mai Hắc Đế, Ngô Quyền đã “Cứu dân ra khỏi cát lầm ngàn năm” mang lại thời kỳ hoà bình với vai trò của các bậc anh hùng kiệt hiệt vừa dựng xây vừa chống ngoại xâm bảo vệ non sông gấm vóc. Bác Hồ đã lần lượt điểm qua những nhân vật tiêu biểu, như Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lý Công Uẩn, và dừng lại khắc hoạ người anh hùng Lý Thường Kiệt:
Lý Thường Kiệt là hiền thần
Đuổi quân nhà Tống, phá quân Xiêm thành
Tuổi già phỉ chí công danh
Mà lòng yêu nước trung thành không phai.
Về vai trò nhà Trần trong lịch sử nước nhà, Bác Hồ đã dành ra 24 câu để mô tả một cách khái quát. Và thật tài tình, triều Trần với 175 năm oanh liệt đã được tác giả khắc hoạ với bao chiến công như còn hiển hiện:
Quân Nguyên binh giỏi tướng tài
Đánh đâu được đấy, dông dài Á, Âu
Tung hoành chiếm nửa Âu châu
Chiếm Cao Ly, lấy nước Tàu bao la
Lăm le muốn chiếm nước ta
Năm mươi vạn lính vượt qua biên thuỳ.
Mặc dù giặc Nguyên Mông đánh đâu thắng đó, nhưng khi đụng phải bức tường thép nước Nam, thì đã phải chuốc lấy thất bại. Những vần thơ viết về chiến thắng quân Nguyên của Bác Hồ thật hào sảng:
Ông Trần Hưng Đạo cầm đầu
Dùng mưu du kích đánh Tàu tan hoang
Mênh mông một giải Bạch Đằng
Nghìn thu soi rạng giống dòng quang vinh.
Tiếp bước Hưng Đạo Vương là bậc anh hùng trẻ tuổi Quốc Toản “Mấy lần đánh thắng quân Nguyên” làm rạng rỡ non sông gấm vóc.
Triều hậu Lê cũng được tác giả dùng những lời lẽ cao đẹp để ngợi ca người anh hùng Lê Lợi nếm mật nằm gai mười năm chống giặc Minh đưa lại hoà bình:
Kìa Tụy Động, nọ Chi Lăng
Đánh hai mươi vạn quân Minh tan tành
Mười năm sự nghiệp hoàn thành
Nước ta thoát khỏi cái vòng nguy nan.
Tác giả dựng lại thời kỳ đen tối Nam – Bắc phân tranh khiến nước ta lần nữa rơi vào tay giặc với giọng xót xa, đau đớn rồi bỗng nhiên bừng lên, rực sáng với hình ảnh người anh hùng áo vải Quang Trung:
Nguyễn Huệ là kẻ phi thường
Mấy lần đánh đuổi giặc Xiêm, giặc Tàu.
Đó là con người “chí cả mưu cao“, biết đoàn kết mọi người “cùng nhau một lòng” chiến đấu nên cuối cùng “Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà“, đuổi quân xâm lăng ra ngoài bờ cõi.
Gần một nửa tác phẩm còn lại, Bác Hồ đã dành để viết về lịch sử cận đại và hiện đại của dân tộc dưới ách thống trị của thực dân Pháp, sự đầu hàng của vua quan nhà Nguyễn và đặc biệt khắc hoạ vai trò những người anh hùng nối bước cha ông đứng lên chống giặc Tây. Việc tập trung ngòi bút cho giai đoạn này là hoàn toàn đúng đắn, có trọng tâm, có điểm nhấn, bởi nhiệm vụ trước mắt, mục đích của cách mạng đang đặt ra là đánh đuổi giặc Pháp giành tự do, độc lập.
Mở đầu phần này, tác giả đã nêu quá trình đầu hàng nhục nhã của triều đình nhà Nguyễn với những câu thơ rõ máu:
Từ năm Tân Hợi trở đi
Tây đà gây chuyện thị phi với mình
Vậy mà vua chúa triều đình
Khư khư cứ tưởng là mình khôn ngoan
Nay ta nước mất, nhà tan
Cũng vì những lũ vua quan ngu hèn!
Với giọng ngậm ngùi, đau đớn, tác giả nói về việc ta mất dần Nam kỳ, rồi Trung kỳ và Bắc kỳ vào tay giặc. Nhưng dân ta đâu chịu cúi đầu, các thế hệ lại nối bước đi lên với Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, và trước đó nữa, là phong trào Cần vương của ông vua trẻ tuổi yêu nước Hàm Nghi, và tiếp sau là các cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên, Yên Bái:
Kìa Yên Bái, nọ Nghệ An
Hai lần khởi nghĩa tiếng vang hoàn cầu.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các cuộc khởi nghĩa đã đẩy lòng yêu Tổ quốc lên đỉnh cao trong cuộc đấu tranh một mất một còn:
Nam kỳ im lặng đã lâu
Năm kia khởi nghĩa đương đầu với Tây
Bắc Sơn đó, Đô Lương đây
Kéo cờ khởi nghĩa, đánh Tây bạo tàn.
Bài thơ đến đây dồn dập, trùng điệp với bao hình ảnh cao đẹp khí thế ngút trời của dân ta trước bão táp cách mạng đang dâng lên cùng khắp năm châu chống đế quốc và chống phát xít…
Phần cuối, như một lời hiệu triệu, Hồ Chí Minh thay mặt Đảng tiên phong kêu gọi:
Hỡi ai con cháu Rồng Tiên
Mau mau đoàn kết vững bền cùng nhau
Bất kỳ nam, nữ, giàu, nghèo
Bất kỳ già, trẻ cùng nhau kết đoàn
Người giúp sức, kẻ giúp tiền
Cùng nhau giành lấy chủ quyền về ta…
Tinh thần lời kêu gọi này về sau lại được Người nhắc lại trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” tháng 12-1946 với ngôn ngữ văn xuôi “Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì cuốc, thuổng, gậy gộc, giáo mác…, không phân biệt già, trẻ, trai, gái, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên…”. Tư tưởng toàn dân đoàn kết chống giặc ngoại xâm xuyên suốt trong mạch văn của Người, lúc nào Người cũng nêu cao chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do“, kiên quyết vùng lên “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào“…
Kết thúc tác phẩm, Bác đưa ta tới viễn cảnh huy hoàng trong niềm tự hào đã làm rạng rỡ truyền thống cha ông:
Mai sau sự nghiệp hoàn thành
Rõ tên Nam Việt, rạng danh Lạc Hồng
Dân ta xin nhớ chữ đồng:
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh.
Về nghệ thuật, tác phẩm được viết theo thể lục bát vốn dễ đi vào lòng người đọc với vần điệu, tiết tấu rất quen với người Việt Nam. Hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu, dễ thuộc mang tính tuyên truyền cao, dễ phổ cập, nhất là trong điều kiện bấy giờ. Là người rất yêu Nguyễn Du và Truyện Kiều, bởi vậy trong tác phẩm này Bác Hồ đã sử dụng có biến hoá nhiều ngôn từ, hình ảnh của tác phẩm bất hủ của nhà đại thi hào dân tộc. Nhiều câu, chữ phảng phất hình ảnh người anh hùng Từ Hải đánh Đông dẹp Bắc, như “Tài năng dũng cảm hơn người”, hoặc “Tài năng văn võ sức hơn muôn người“, hoặc “Tướng Tây Sơn, có một bà / Bùi là nguyên họ, tên là Thị Xuân“. Có khi Bác dùng lại nguyên một câu thơ với nội dung hoàn toàn mới mẻ “Trên vì nước, dưới vì nhà/ ấy là sự nghiệp, ấy là công danh“. Ngoài ra tác giả còn sử dụng rất thành thục ca dao, tục ngữ, thành ngữ dân gian vào trong tác phẩm, ví như “cõng rắn cắn gà nhà” để kể tội Gia Long, rồi “đánh đông, dẹp bắc“, rồi “giang sơn gấm vóc“, hoặc “con Rồng cháu Tiên“… Nhờ những hình thức nghệ thuật đậm đà bản sắc dân tộc đó mà tác phẩm dễ dàng đi vào lòng người, đạt mục đích tuyên truyền, vận động cách mạng.
Bài thơ dài Lịch sử nước ta mãi mãi là một tác phẩm giàu tâm huyết, có tác dụng rất lớn trong mọi thời đại. Ngày nay, trong điều kiện hội nhập rộng rãi, chúng ta càng không quên lịch sử bốn nghìn năm cha ông đã anh dũng đứng lên dựng nước và giữ nước; trong hành trang đi vào thế kỷ mới, mỗi chúng ta đều phải trang bị cho mình niềm tự hào truyền thống anh hùng, quật cường để vững vàng vượt mọi phong ba, thẳng tiến tới theo con đường mà Bác Hồ vô vàn kính yêu đã chọn.
Hoàng Thái Sơn
Hội Nhà văn Hải phòng
Tâm Trang (st)