xay-dung-quoc-phong-toan-dan

Lực lượng vũ trang Quân khu 4 diễu binh nhân kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống. Ảnh: TTXVN

Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước được Đảng ta khởi xướng từ năm 1986, trải qua 6 lần Đại hội (từ Đại hội VII đến Đại hội XII), lĩnh vực quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc đã có những đổi mới quan trọng, trên nhiều mặt cả về lý luận và thực tiễn; quan điểm, nhận thức và tổ chức thực hiện. Trong bài viết này tác giả muốn đề cập đến vấn đề xây dựng nền quốc phòng toàn dân theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng với các nội dung chủ yếu là xây dựng lực lượng, bố trí thế trận và hoàn thiện cơ chế.

Từ xây dựng lực lượng…

Trong thời gian khá dài (trước đổi mới), chúng ta xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận chiến tranh nhân dân thường nhấn mạnh xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong đó quân đội nhân dân có vai trò nòng cốt. Quan niệm về lực lượng vũ trang ba thứ quân đã trở thành truyền thống. Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới, khi mà nhiệm vụ quốc phòng và an ninh ngày càng gắn bó với nhau, nhiều vấn đề đan xen đòi hỏi các lực lượng phải kết hợp với nhau mới giải quyết được thì một tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc đã hình thành, nhận thức mới cũng nảy sinh. Khái niệm và lực lượng vũ trang nhân dân nay đã mở rộng nội hàm không chỉ là 3 mà bao gồm nhiều thứ quân: Quân đội nhân dân, công an nhân dân; dân quân tự vệ; lực lượng tham gia gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc…

Lực lượng quốc phòng toàn dân còn bao gồm cả các lực lượng phi vũ trang: Chính trị, kinh tế, ngoại giao, văn hoá, xã hội...; các lực lượng có liên quan đến sức mạnh quốc phòng như: lực lượng phòng thủ dân sự, lực lượng thực hiện phòng tránh và đánh trả địch bằng các công cụ chuyên môn, chuyên ngành để đối phó với các tình huống xảy ra trong thời bình và trong thời chiến, hoặc trong đấu tranh quốc phòng, an ninh phi vũ trang trên các vùng biên giới biển, đảo của Tổ quốc.

Vì vậy, từ Nghị quyết Đại hội IX (năm 2001), Đảng ta khẳng định: “Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân” (1). Đến Đại hội XI (năm 2011) Đảng ta lại nhấn mạnh: “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc của cả hệ thống chính trị, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh…”(2). Tại Đại hội XII, Đảng ta đã cụ thể hóa nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới đến năm 2030 là: “Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó quân đội nhân dân và công an nhân dân là nòng cốt”(3). Đó là những đánh giá và định hướng quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong trong quá trình đổi mới đất nước từ nay đến giai đoạn 2020-2030.

Chúng ta biết rằng, lực lượng quốc phòng toàn dân luôn gắn với lực lượng tiến hành chiến tranh nhân dân, thế trận quốc phòng toàn dân luôn gắn với thế trận chiến tranh nhân dân. Đó là mối quan hệ hữu cơ giữa thế và lực, là quan hệ mật thiết giữa thời bình với thời chiến. Sức mạnh quốc phòng toàn dân vừa để duy trì hoạt động đấu tranh quốc phòng thường xuyên trong thời bình, vừa bảo đảm cho đất nước xây dựng và phát triển ổn định, nhanh và bền vững, góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Như vậy, từ nhận thức lực lượng toàn dân đánh giặc trong thời kỳ đất nước có chiến tranh đến nhận thức lực lượng quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc ngày nay là một bước phát triển mới, đã cụ thể hóa hơn quan điểm “toàn dân đánh giặc”, “cả nước là binh”. Đây là sự đổi mới quan trọng về nhận thức lý luận và là cơ sở để hình thành lý luận về xây dựng lực lượng quốc phòng toàn dân trong quá trình tiếp tục sự nghiệp đổi mới trong những thập niên tiếp theo của thế kỷ XXI.

… Đến bố trí thế trận

Trong quá trình đổi mới, quan niệm về nền quốc phòng toàn dân ngày càng phát triển, từng bước đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đấu tranh quốc phòng thời bình và khả năng chuyển hóa nhanh khi có chiến tranh, nhất là tình huống đấu tranh quốc phòng phi vũ trang trên các vùng biên giới, biển, đảo của Tổ quốc. Do vậy, khái niệm về thế trận quốc phòng toàn dân ra đời cùng với khái niệm nền quốc phòng toàn dân và đã được ghi nhận trong Nghị quyết Trung ương 3, khoá VII (năm 1992).

Thế trận quốc phòng toàn dân được xác định là thế bố trí các lực lượng quốc phòng theo ý định chiến lược, nhằm phát huy cao độ sức mạnh quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đồng thời là thế trận để phòng, ngừa, loại trừ chiến tranh và sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược nếu địch cố tình gây ra với phương châm: Kiên định về mục tiêu, nguyên tắc chiến lược; linh hoạt, mềm dẻo về sách lược; kiên trì giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc là tối thượng, phù hợp với luật pháp quốc tế; có đối sách linh hoạt với từng đối tượng, tình huống cụ thể.
Thế trận quốc phòng toàn dân còn thể hiện ở sự bố trí từng lực lượng quốc phòng một cách hợp lý, có lợi nhất nhằm tạo ra sức mạnh quốc phòng tổng hợp, đáp ứng mọi yêu cầu nhiệm vụ đấu tranh quốc phòng cả trong thời bình và thời chiến. Thế trận quốc phòng toàn dân luôn gắn bó chặt chẽ với các thế trận khác như thế trận an ninh nhân dân, biên phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân, bao gồm cả thế trận trên các vùng biển đảo... Đây cũng là cơ sở để gắn kết thế và lực của các lĩnh vực, ngành có liên quan trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do vậy, nó liên quan đến việc tổ chức xếp sắp, xây dựng các quy hoạch, kế hoạch ngay từ trong thời bình, hình thành nhu cầu thực tiễn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định, nhanh và bền vững; tăng cường khả năng đấu tranh quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia.

Thế trận quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc cũng chính là thế bố trí phòng thủ quốc gia. Có thể coi đó là chỗ dựa cho sự hình thành và liên kết các thế trận an ninh nhân dân, biên phòng toàn dân, tạo thành thế trận giữ nước vững chắc thời bình, phản ánh sự đổi mới trong tổ chức thế bố trí các lực lượng quốc phòng, là sự khác biệt giữa phòng ngự với phòng thủ. Thế trận quốc phòng toàn dân ngày nay được hình thành một cách tổng hợp đi từ cơ sở đến toàn quốc, theo một hệ thống thế bố trí cơ bản bao gồm: Khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố); thế bố trí các lực lượng chiến lược; các khu kinh tế  - quốc phòng được xây dựng… Do vậy, sự ra đời của khu vực phòng thủ là sự phát triển rất quan trọng trong lý luận về nền quốc phòng toàn dân sau 30 năm đổi mới. Vì thế, trong Văn kiện Đại hội XII, Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh: “Xây dựng ‘thế trận lòng dân’, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến”(4).

Hoàn thiện cơ chế

Trong quá trình vận hành cơ chế lãnh đạo, quản lý, điều hành xây dựng nền quốc phòng toàn dân, Đảng ta đã từng bước có sự đổi mới, điều chỉnh, bổ sung nhằm phát huy hiệu lực cao hơn đối với các tổ chức ở Trung ương, chủ yếu đẩy mạnh các hoạt động, phát huy vị trí chức năng trong quá trình lãnh đạo, điều hành có hiệu quả hơn đối với nhiệm vụ quốc phòng; trong chỉ đạo kết hợp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội với không ngừng tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh.

Đối với các địa phương, cơ sở tiếp tục thể nghiệm sự vận hành cơ chế lãnh đạo, điều hành, chỉ huy theo Nghị quyết 02/BCT. Trong khi khẳng định vai trò Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, đã xác định tất cả các ban ngành đều phải làm tham mưu theo chức năng. Tuy nhiên, cơ quan quân sự vẫn làm trung tâm hiệp đồng và chỉ huy thống nhất các lực lượng vũ trang khi có tình huống chiến sự, chiến tranh, đó là sự phát triển, đổi mới rất quan trọng trong quá trình hoàn thiện cơ chế.

Về cơ cấu tổ chức cũng có những đổi mới quan trọng đó là sự hình thành Đảng ủy Quân sự và Đảng ủy Công an do bí thư và phó bí thư trực tiếp tham gia vào hai đảng uỷ. Đồng thời bí thư các tỉnh, thành phố trong các Quân khu đều tham gia Đảng ủy Quân khu nên đã phát huy tốt vai trò lãnh đạo công tác quốc phòng địa phương, ở cơ sở đã hình thành tổ chức chi bộ quân sự.

Nếu như trước đây việc lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt chỉ xác định với quân đội nhân dân và công an nhân dân, thì nay đã áp dụng đối với cả sự nghiệp quốc phòng - an ninh. Trong Văn kiện Đại hội IX của Đảng chỉ rõ “Thường xuyên tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội nhân dân, công an nhân dân, đối với sự nghiệp quốc phòng và an ninh” (5).

Việc ban hành Nghị định 119/2004/NĐ-CP về công tác quốc phòng ở bộ, cơ quan ngang bộ là một bước quan trọng của đổi mới cơ chế quản lý nhà nước về quốc phòng được pháp luật hóa. Điều 11 Nghị định 119/CP đã quy định rõ trách nhiệm của Bộ Quốc phòng với 3 nhiệm vụ cụ thể. Một là, giúp Chính phủ chủ trì thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác quốc phòng; Hai là, Bộ Tư lệnh Quân khu có trách nhiệm giúp Bộ Quốc phòng thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác quốc phòng trên địa bàn; Ba là, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Ban Chỉ huy quân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và ban chỉ huy quân sự xã, phường, thị trấn có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các ban ngành, đoàn thể làm tham mưu giúp chủ tịch ủy ban nhân dân cùng cấp tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về công tác quốc phòng địa phương. Chuyển từ chức năng chủ trì phối hợp sang chức năng chủ trì thực hiện quản lý đã làm rõ vai trò quản lý nhà nước về công tác quốc phòng ở các bộ, ngành và địa phương thông qua cơ quan chủ quản là Bộ Quốc phòng, là bước đổi mới quan trọng trong quá trình hoàn thiện cơ chế. Điều quan trọng hơn là những đổi mới về lý luận và thực tiễn nêu trên đã được hiến định trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, tại các điều 64 đến 68 của Chương IV về Bảo vệ Tổ quốc.

Và những giải pháp cần quan tâm…

Để sớm đưa Nghị quyết XII của Đảng vào thực tiễn xây dựng nền quốc phòng toàn dân cần quan tâm đến các giải pháp chủ yếu sau:

Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu phát triển khoa học - nghệ thuật bảo vệ Tổ quốc. Xác định rõ hơn nữa phương thức dân quân tự vệ trong tình hình mới là kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh phi vũ trang với đấu tranh vũ trang, kết hợp xây dựng với bảo vệ, lấy xây dựng để bảo vệ; nhấn mạnh phương thức “phi vũ trang”, bảo vệ Tổ quốc từ xa, đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” và phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; cụ thể hóa quan điểm chủ động bảo vệ Tổ quốc từ xa; phát triển, hoàn thiện quan điểm “tự bảo vệ” trong điều kiện mới. Mở rộng đối tượng và phạm vi bảo vệ, thực hiện kết hợp quốc phòng - an ninh với kinh tế - xã hội; xây dựng hoàn thiện hệ thống lý luận về nền quốc phòng toàn dân trong thời kỳ mới.

Thứ hai, tổ chức hệ thống các lực lượng trong sự nghiệp quốc phòng nhằm nâng cao năng lực bảo vệ trong xây dựng thời bình và đáp ứng yêu cầu thời chiến trong tình huống địch có sử dụng vũ khí công nghệ cao, nhất là tình huống đấu tranh quốc phòng phi vũ trang trên các vùng biên giới biển, đảo của Tổ quốc. Tiếp tục đổi mới hệ thống công nghiệp quốc phòng của đất nước, phát huy vai trò chủ đạo của Nhà nước và vai trò nòng cốt của công nghiệp quân sự trong phát triển công nghiệp quốc phòng.

Thứ ba, nghiên cứu phân rõ mối quan hệ giữa xây dựng lực lượng quốc phòng, nền quốc phòng toàn dân và thế trận quốc phòng toàn dân. Tiếp tục làm rõ hơn mối quan hệ giữa thế trận trên các lĩnh vực, các ngành như: Quy hoạch, kế hoạch kinh tế - xã hội; thế trận an ninh nhân dân; thế trận ngoại giao và thế trận trong đấu tranh quốc phòng phi vũ trang... Đặc biệt, cần có sự kết hợp chặt chẽ thống nhất giữa các cơ quan chức năng để xây dựng chiến lược kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng - an ninh, nhất là kết hợp kinh tế - xã hội với đấu tranh quốc phòng - an ninh phi vũ tranh trên vùng Biển Đông.

Thứ tư, nghiên cứu sâu hơn và làm rõ hệ thống tổ chức Đảng lãnh đạo sự nghiệp quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân. Đối với quân đội nhân dân, cần thực hiện tốt chế độ chính uỷ, chính trị viên gắn với hoàn thiện cơ chế một người chỉ huy; ban hành chính sách đào tạo cán bộ, sĩ quan phù hợp với yêu cầu cao hơn của thời kỳ mới; đầu tư cao cho xây dựng chiến lược đào tạo nhân tài quân sự cho đất nước.

 Thứ năm, nghiên cứu mối quan hệ giữa các cấp, các ngành theo hệ thống từ trung ương đến cơ sở, theo hướng phối hợp giữa quan hệ dọc và ngang, bảo đảm chỉ huy giữa các lực lượng bảo vệ đất nước: Chủ lực, địa phương, biên phòng, công an, kiểm ngư, hải cảnh; các lực lượng phòng thủ dân sự và các lực lượng bảo vệ bằng phương thức phi vũ trang; làm rõ cơ chế lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, phối hợp giữa Bộ Quốc phòng với Bộ Ngoại giao đối với lực lượng tham gia gìn giữ hòa bình của Việt Nam tại Liên hợp quốc./.


Tài liệu tham khảo:


(1). Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội IX của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, tr 117


(2). Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011, tr 233


(3). Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, Mục X, tr 148


(4). Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2016, Mục X, tr 149


(5). Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội IX của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, tr119

Quang Huy

Nguồn: Tạp chí Cộng sản

Kim Chi (ST)

Bài viết khác: