Hồ Chủ tịch nghiên cứu tài liệu trong hang đá ở Việt Bắc năm 1951.
Những năm qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức luôn được duy trì và ngày một phát triển. Nếu như giai đoạn 2001-2005 cả nước có khoảng 2.553.000 lượt cán bộ, công chức, viên chức được cử đi đào tạo, bồi dưỡng thì giai đoạn 2006-2010 có khoảng 3.950.000 lượt và trong 4 năm (2011-2014) cả nước đã có hơn 3.770.000 lượt cán bộ, công chức, viên chức được cử tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng, tăng từ 15 đến 20%. Cùng với sự tăng về số lượt người tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng, công tác quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng được chú trọng. Nội dung, hình thức đào tạo, bồi dưỡng đa dạng hơn, nhờ thế chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng dần được cải thiện, góp phần nâng chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, đạt hiệu quả trong thực thi nhiệm vụ, công vụ. Tuy nhiên, trước yêu cầu của hội nhập quốc tế, cải cách hành chính, chế độ công vụ, công chức, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức đang đứng trước những thách thức và yêu cầu mới.
Hội nghị Trung ương chín (khóa X) về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020 đã xác định: “Mục tiêu cần đạt được là xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất và năng lực tốt, có cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc…”. Để đạt được mục tiêu đề ra, Hội nghị yêu cầu: “Nghiên cứu xây dựng Chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, CNH, HĐH và chủ động hội nhập quốc tế” với nhiệm vụ “Tạo chuyển biến sâu sắc trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo quy hoạch, tiêu chuẩn chức danh cán bộ, chú trọng bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ lãnh đạo quản lý, coi đây là giải pháp quan trọng hàng đầu trong thực hiện Chiến lược cán bộ trong giai đoạn mới”.
Để thực hiện nhiệm vụ trên, Nghị quyết chỉ rõ là phải: “Đổi mới phương thức và nội dung các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức sát với thực tế hướng vào các vấn đề thiết thực đặt ra từ quá trình thực thi công vụ, nâng cao kỹ năng hành chính. Thông qua đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng hành chính đảm bảo tính thống nhất trong hành động của cơ quan hành chính, nhất là trong giải quyết các yêu cầu của nhân dân, doanh nghiệp… Thực hiện đào tạo, bồi dưỡng trong công vụ theo định kỳ bắt buộc hàng năm; thực hiện chế độ đào tạo, bồi dưỡng trước khi bổ nhiệm”.
Trong bối cảnh yêu cầu nhiệm vụ đặt ra như vậy, việc nghiên cứu Tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về huấn luyện cán bộ để vận dụng vào thực tiễn nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng là rất cần thiết. Tư tưởng của Người về huấn luyện cán bộ được thể hiện trong rất nhiều tác phẩm, bài viết, bài nói chuyện như “Đường kách mệnh”, “Sửa đổi lối làm việc”, “Thư gửi thanh niên An Nam”… Tìm hiểu tư tưởng của Người và căn cứ vào thực tiễn hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức hiện nay, chúng tôi thấy một số vấn đề sau đây cần được tiếp tục nghiên cứu đổi mới để không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức.
1. Xác định chức năng, nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng
Hiện nay hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức đang thực hiện: Đào tạo ngắn hạn và dài hạn với trình độ đại học, sau đại học, thậm chí cả trung cấp, cao đẳng. Bồi dưỡng với các chế độ khác nhau, như bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch, chức danh; theo chức vụ lãnh đạo, quản lý; theo nhu cầu vị trí việc làm.
Hồ Chí Minh khi nói và viết về đào tạo, bồi dưỡng, Người dùng khái niệm “huấn luyện”, “huấn luyện cán bộ”. Theo Người, công tác “huấn luyện” cán bộ là để làm việc được tốt. Người viết: Phải thực hành khẩu hiệu: làm việc gì học việc ấy. Vô luận ở quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, tổ chức, tuyên truyền, công an .v.v, cán bộ ở môn nào phải học cho thạo công việc ở trong môn ấy. Như vậy mục tiêu của “huấn luyện cán bộ” trong tư tưởng của Người là “thạo việc”.
Từ điển tiếng Việt giải nghĩa: “Thạo” là “thành thục, hiểu biết rất rành rõ, sử dụng một cách bình thường, không có gì khó khăn”. Như vậy “thạo” không có nghĩa là cung cấp tri thức mà là năng lực thao tác, năng lực làm việc. “Thạo việc” đối với Hồ Chí Minh là nắm vững lý luận và phải làm được việc.
Người cho rằng, nếu chỉ đem lý luận khô khan nhét vào cho đầy óc người học, bày cho họ viết những chương trình rất kêu; nhưng đối với việc thực tế, tổ chức, kinh nghiệm chỉ nói qua loa là lý luận suông, vô ích. Trong khi đó, lúc học lý luận mà nghiên cứu công việc thực tế, kinh nghiệm thực tế để người học có thể làm được việc là lý luận thiết thực, có ích. Từ đó Người đề ra yêu cầu: lý luận và thực tế phải đi cùng nhau. Như vậy, chúng ta thấy tư tưởng của Người về công tác huấn luyện cán bộ là: Học để làm việc, học phải đi đôi với hành. Người viết: Lý luận cốt để áp dụng vào thực tế. Chỉ học thuộc lòng, để đem lòe thiên hạ thì lý luận ấy cũng vô ích.
Luật Cán bộ, công chức năm 2010 quy định: “Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phải căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch, tiêu chuẩn đối với từng chức vụ, tiêu chuẩn nghiệp vụ từng ngạch”. Đành rằng, về mặt lô-gic thì tiêu chuẩn ngạch được xác định xuất phát từ yêu cầu chuyên môn. Nhưng trên thực tế, ngạch là khái niệm rất rộng. Một ngạch công chức có thể có hàng ngàn, mấy chục ngàn công chức. Những công chức đó đang thực hiện những công việc khác nhau, có thể rất ít liên quan đến nhau. Ví dụ, công chức ngạch chuyên viên tài chính, ngạch tổ chức nhà nước… nhưng họ phải học cùng một chương trình quản lý nhà nước ngạch chuyên viên và các chương trình khác. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản hạn chế chất lượng, hiệu quả của hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và đã dẫn đến hiện tượng: người học không được học cái mà họ cần; học xong chưa làm được việc. Bên cạnh đó, việc quy định “đào tạo theo tiêu chuẩn” còn buộc cơ quan quản lý nhân sự chịu trách nhiệm trong việc bảo đảm tiêu chuẩn về trình độ đào tạo cho cán bộ, công chức, viên chức.
Chúng ta đang thực hiện cải cách chế độ công vụ, công chức. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cải cách là xây dựng hệ thống vị trí việc làm. Tư duy về vị trí việc làm dưới góc độ hoạt động bồi dưỡng trước hết phải thực hiện theo tư tưởng của Người. Đó là: làm việc gì thì học để làm việc đấy cho tốt. Để làm được việc này cần từng bước giảm dần “gánh nặng” đào tạo cho các cơ quan hành chính; tập trung toàn bộ nỗ lực vào việc cập nhật nâng cao kiến thức, trang bị kỹ năng, phương pháp thực hiện nhiệm vụ công vụ thực hiện mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp “thạo việc”.
2. Cách tổ chức “huấn luyện nghề nghiệp”
Những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cách tổ chức huấn luyện nghề nghiệp có thể tổng hợp như sau:
Về chương trình huấn luyện: Học cái gì? Tư tưởng của Người về việc biên soạn các tài liệu học tập rất hiện đại, xuất phát từ mục tiêu “huấn luyện cán bộ”. Chương trình huấn luyện, theo Người, phải thiết thực đối với công việc. Người viết: …những tài liệu huấn luyện phải nhằm vào sự cần dùng, cần thiết của quần chúng. Phải hỏi: người đến chịu huấn luyện rồi, có áp dụng được ngay không? Có thực hành được ngay không. Người phê phán cách làm chủ quan, lấy những điều mình cho là quan trọng, là cần thiết bắt cán bộ phải học. Người gọi cách làm đó là “gọt chân cho vừa giày”.
Về cách học: Học như nào? Người đề cao tính tự giác, tích cực của người học và cho rằng phải lấy tự học làm nòng cốt. Do thảo luận và chỉ đạo giúp đỡ vào. Như vậy, đối với Hồ Chủ tịch, “huấn luyện” không chỉ là nhiệm vụ của các cơ quan chức năng, trước hết người cán bộ phải tự huấn luyện. Nhà sư phạm nổi tiếng nước Nga V.A.Xu-khôm-lin-xki khẳng định: “Không thể có giáo dục nếu không có tự giáo dục”. Huấn luyện trước hết là hoạt động tự giác của người cán bộ, công bộc của dân.
Đối với Người, thầy giáo là người hướng dẫn, định hướng nội dung học tập để cùng trao đổi, thảo luận; tuyệt đối không phải là người chủ đứng trên bục giảng để thuyết trình. Đây là phương pháp giáo dục hiện đại mà các nước tiên tiến đang áp dụng hiện nay.
Về giáo viên, giảng viên, Hồ Chủ tịch rất coi trọng hoạt động của người giáo viên. Bởi trên thực tế, việc “thảo luận” và “chỉ đạo” đối với cán bộ, những người đang làm việc, có kinh nghiệm thực tiễn là việc làm rất khó. Bởi vậy, Người yêu cầu: Phải lựa chọn rất cẩn thận những người nhân viên phụ trách việc huấn luyện đó.
Đây là lời giáo huấn rất rõ ràng và thiết thực cho các cơ quan chức năng. Muốn bảo đảm chất lượng của hoạt động bồi dưỡng cần có những giảng viên không chỉ am hiểu về lý luận mà còn phải có kinh nghiệm thực tiễn; phải có phương pháp sư phạm. Bởi vì vấn đề ở đây không chỉ huấn luyện các đồng nghiệp mà còn là dịp để nắm bắt tư tưởng của đồng chí, đồng nghiệp, tìm hiểu thực tế làm giàu kiến thức và kinh nghiệm cho bản thân.
Hiện nay, do điều kiện công tác, một số cán bộ lãnh đạo ít có điều kiện tham gia các khóa bồi dưỡng cũng như tham gia hướng dẫn tại các khóa học. Đây không chỉ là sự thiệt thòi của các đồng chí mà còn chưa thực hiện hết trách nhiệm của mình đối với sự nghiệp “trồng người” mà Bác kính yêu đã căn dặn.
Học cái gì? Học như thế nào? Và ai là người dạy, hướng dẫn học? là những vấn đề cơ bản của sư phạm học và cũng là vấn đề quyết định chất lượng của hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng. Việc đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trước hết cần tập trung vào việc nghiên cứu để biên soạn được những chương trình thực sự thiết thực, thiết thân, thiết yếu đáp ứng nhu cầu của người học; học viên phải thể hiện tinh thần chủ động, trách nhiệm trong việc không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao năng lực chuyên môn để hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước giao; giảng viên phải thật sự có đủ trình độ, năng lực, kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn để hướng dẫn học viên. Trong những năm qua chúng ta đã đề cập nhiều đến những yếu tố này, nhưng đổi mới còn chậm. Một trong những nguyên nhân chính là lúng túng trong cách nghĩ và cách làm. Do đó, thiết nghĩ việc nghiên cứu và làm theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ giúp chúng ta thực hiện đổi mới nhanh hơn, chất lượng hơn và hiệu quả hơn.
Phạm Nguyên Nhung
Nguồn: Tạp chí Xây dựng Đảng
Kim Chi (ST)