Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh chủ trương tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực tế đang và sẽ ghi nhận động lực tăng trưởng kinh tế từ vốn đầu tư, sự cải thiện môi trường kinh doanh, tự do hóa đầu tư, tham gia chuỗi liên kết và cung ứng sâu và vững chắc hơn, tuân thủ các chuẩn mực và thông lệ thế giới, phát triển kinh tế biển,... Tuy vậy, những triển vọng phát triển kinh tế - xã hội những những năm tới tùy thuộc vào kết quả thực hiện các đột phát chiến lược và các giải pháp cơ bản.

1. Những điểm nhấn chính sách theo tinh thần Đại hội XII

Về phát triển kinh tế trong những năm tới, Đại hội XII nhấn mạnh chủ trương:“Tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức; hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”(1).

Ngày nay, tái cơ cấu gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh trên cơ sở khai thác các thành quả cách mạng khoa học - công nghệ, hiện đại hóa cơ cấu và thể chế quản lý gắn với phát triển kinh tế tri thức là cách thức phát triển chung của mọi quốc gia. Đây là một quá trình mở, được thúc đẩy mạnh mẽ hơn trong bối cảnh các cơ hội và nguồn lực phát triển theo chiều rộng đã tới giới hạn, trong khi các yêu cầu và điều kiện phát triển theo chiều sâu đang ngày càng gia tăng áp lực. Việc kéo dài cách thức đầu tư cũ, chậm đổi mới cơ chế quản lý cho phù hợp với bối cảnh thị trường hiện đại sẽ không chỉ làm triệt tiêu động lực tăng trưởng trước đó, mà còn giảm sút năng lực cạnh tranh và chất lượng môi trường sống, tăng nợ xấu và nợ công, bất bình đẳng xã hội và nguy cơ bùng phát những bất ổn cả về kinh tế và xã hội. Hơn nữa, tái cơ cấu và đổi mới mô hình tăng trưởng không thể là việc làm duy ý chí, phong trào, hình thức, bất chấp các hệ lụy và tác động hai mặt... Cần nhấn mạnh rằng, nếu như tính kinh tế thị trường (KTTT) của nền kinh tế Việt Nam được thống nhất khẳng định là nền  KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật và tuân thủ đúng quy trình của kinh tế thị trường, thì tính định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước lại được thể hiện ở mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”và được bảo đảm bởi sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Sự kết hợp hiệu quả giữa tính KTTT và tính định hướng XHCN cũng chính là đáp ứng xu hướng mới mang tầm vóc thời đại, đòi hỏi có sự kết hợp tất yếu của bàn tay thị trường với vai trò của nhà nước trong một mô hình quản lý xã hội mới đang dần định hình trên thế giới, nhất là từ sau những cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội liên tiếp xảy ra trong những thập niên cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI trên quy mô toàn thế giới và trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Sự kết hợp này vừa là mục tiêu, vừa là động lực gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường; tạo môi trường thuận lợi cho phát huy dân chủ, sáng tạo và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo đảm kinh tế Việt Nam phát triển nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô, không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước...

Vì vậy, Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ, trong thời gian tới, quá trình tái cơ cấu, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng ở Việt Nam cần tiến hành theo hướng: Kết hợp có hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ; nâng cao năng suất lao động, chất lượng nguồn nhân lực; phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế; giải quyết hài hòa giữa mục tiêu trước mắt và lâu dài, giữa phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh, phát triển văn hóa, tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Triển khai tái cơ cấu đồng bộ, tổng thể nền kinh tế, các ngành, các lĩnh vực, sản phẩm, thị trường và các yếu tố sản xuất; tập trung tái cơ cấu đầu tư công, hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính; các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước và ngân sách nhà nước; kiểm soát nợ xấu, nợ công sở hữu chéo; Phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ và tạo giá trị gia tăng cao, bảo đảm chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm; Phát triển công nghiệp chế tạo, chế biến, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp sạch, công nghiệp năng lượng, cơ khí, điện tử, hóa chất, công nghiệp xây dựng, xây lắp, công nghiệp quốc phòng, an ninh; phát triển khu vực dịch vụ theo hướng hiện đại, đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn các khu vực sản xuất và cao hơn tốc độ tăng trưởng của cả nền kinh tế, ưu tiên một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao; Phát triển mạnh kinh tế biển và các vùng kinh tế động lực, một số đặc khu kinh tế và ưu tiên tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế vùng cao, vùng sâu, vùng xa và địa bàn khó khăn, dân tộc thiểu số...

Với những báo cáo và tham luận chính thức được thể hiện trong Đại hội XII, thông điệp nổi bật về đối ngoại và phát triển kinh tế đối ngoại trong thời gian tới của Việt Nam là: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế,... Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới trong một kế hoạch tổng thể với lộ trình hợp lý; phù hợp với lợi ích của đất nước. Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác chiến lược và các nước lớn có vai trò quan trọng đối với phát triển và an ninh của đất nước, đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập vào thực chất. Chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên Hợp quốc. Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh, trong đó có việc tham gia các hoạt động hợp tác ở mức cao hơn như hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hợp quốc, diễn tập về an ninh phi truyền thống và các hoạt động khác. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo và các lĩnh vực khác... Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Đặc biệt, trong 5-10 năm tới, Việt Nam sẽ nỗ lực đưa chính sách đối ngoại và hội nhập quốc tế theo chiều sâu, tạo được sự đan xen, gắn kết lợi ích một cách lâu dài và bền vững giữa nước ta với các đối tác, đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập đi vào thực chất; tạo dựng được lòng tin và hình thành nên các cơ chế hợp tác có hiệu quả trong việc thúc đẩy quan hệ, ngăn ngừa, đẩy lùi các nguy cơ, kiểm soát các bất đồng và giải quyết các vấn đề nảy sinh, nhất là các vấn đề có thể tác động nghiêm trọng tới an ninh và phát triển của đất nước ta; thực hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng đồng ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới; tận dụng các cam kết quốc tế để mở rộng thị trường, tái phân bổ và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế cũng như của doanh nghiệp Việt Nam; gia tăng mức độ tự chủ của nền kinh tế, xác lập vị trí cao hơn trong chuỗi sản xuất, cung ứng ở khu vực và toàn cầu; tăng cường khả năng ứng phó của nền kinh tế trước những tác động từ bên ngoài; đóng góp ngày càng nhiều cho quá trình phát triển nội lực và liên kết vùng trong cả nước; tận dụng được chính hệ thống quy tắc và luật lệ của các tổ chức quốc tế để bảo vệ được các lợi ích chính đáng của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân Việt Nam trong quan hệ với đối tác nước ngoài; chủ động hơn trong việc nghiên cứu, chọn lựa các bộ tiêu chí, xây dựng và triển khai lộ trình áp dụng và đồng thời tham gia xây dựng các tiêu chí, chuẩn mực chung, góp phần nâng trình độ phát triển của nước ta trong các lĩnh vực này; phục vụ các mục tiêu xây dựng nền kinh tế tri thức và con người Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; tạo dựng các mối quan hệ ổn định, lâu dài hơn với các đối tác, gia tăng tính ổn định, bền vững của môi trường chính trị, an ninh, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế.

Để đạt mục tiêu trên, cần triển khai đồng bộ các định hướng đối ngoại; nâng cao hiệu quả sự phối hợp giữa đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân, giữa các ngành, các cấp, các địa phương; trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác, nhất là các khuôn khổ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định cho đất nước, thúc đẩy quan hệ chính trị, kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học, công nghệ, tạo thuận lợi cho phát triển đất nước và quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam; tăng cường công tác phổ biến các cam kết quốc tế ta đã ký kết, đã nội luật hóa và các quy định trong quá trình triển khai; làm cho mỗi tổ chức, mỗi người dân hiểu rõ thách thức, cơ hội mà họ có được từ hội nhập quốc tế để tham gia một cách chủ động và tích cực; biến quá trình hội nhập từ các hoạt động chủ yếu do các cơ quan nhà nước tiến hành thành quá trình tham gia chủ động và tích cực của từng địa phương, tổ chức, doanh nghiệp, người dân; tập trung thực hiện Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến 2020, tầm nhìn 2030 và các đề án, kế hoạch triển khai Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế; khẩn trương hoàn thiện, nâng cao năng lực các thể chế hội nhập; đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ hội nhập; phấn đấu đến 2020, mức độ hội nhập trên các lĩnh vực của nước ta ở mức độ cao của các nước ASEAN.

2. Tận dụng cơ hội mới về kinh tế

Thực tế đang và sẽ tiếp tục ghi nhận động lực tăng trưởng kinh tế đất nước không chỉ là vốn đầu tư, mà từ sự cải thiện môi trường kinh doanh, giảm nhẹ gánh nặng chi phí tài chính và thể chế; đẩy mạnh tái cơ cấu, xã hội hóa và tự do hóa đầu tư, tham gia chuỗi liên kết và cung ứng giá trị sâu và vững chắc hơn, cũng như tuân thủ các chuẩn mực và thông lệ thế giới, nhất là về quản trị rủi ro cao hơn; phát triển kinh tế biển, công nghiệp phụ trợ và cơ cấu kinh tế vùng; kiểm soát tốt an toàn tài chính vĩ mô, nợ công, nợ xấu, sở hữu chéo và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; trọng dụng người hiền tài và đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, phát huy dân chủ trong Đảng và trong xã hội.

Việt Nam hiện đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 185/193 quốc gia thành viên Liên Hợp quốc; có 98 cơ quan đại diện của Việt Nam tại nước ngoài và quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư với hơn 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, là thành viên tích cực của trên 70 tổ chức khu vực và quốc tế; thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 15 nước và đối tác toàn diện với 10 nước. Ngoài WTO, Việt Nam đã ký 12FTA(có 6 FTA trong khuôn khổ hợp tác ASEAN) và kết thúc đàm phán 1 FTA khác trong tổng số 16 FTA ta đã tham gia và đang đàm phán. Với những FTA được ký kết, Việt Nam có quan hệ sâu rộng với 55 nước đối tác, trong đó có 15/20 nước G20, chiếm trên 65% GDP và 50% thương mại thế giới, mở ra nhiều cơ hội về đầu tư và thương mại. Đối với Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia thành viên có tỷ lệ thực hiện cao nhất các biện pháp xây dựng Cộng đồng; 59 đối tác chính thức công nhận Việt Nam có quy chế kinh tế thị trường. Việt Nam đã thu hút được tổng cộng trên 250 tỷ USD vốn FDI, với sự có mặt của trên 100 tập đoàn đa quốc gia hàng đầu thế giới và có độ mở nền kinh tế đứng thứ 5 trên thế giới; một trong số ít nước đang tham gia tất cả các liên kết kinh tế quan trọng ở khu vực, trong đó có Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP). Việt Nam đã ký 90 hiệp định thương mại song phương, gần 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 hiệp định chống đánh thuế hai lần...

Về tổng thể, trong trung hạn, Việt Nam sẽ giữ được ổn định vĩ mô khá tích cực với mức tăng trưởng GDP và cả lạm phát đều trên dưới 6-6,5%. Ước tính, GDP của Việt Nam sẽ tăng thêm ít nhất 10% khi các FTA được ký và triển khai từ năm 2015-2025. Việt Nam tiếp tục phát triển và là điểm sáng thứ hai châu Á về tốc độ tăng GDP, cải thiện về thu hút FDI, vốn gián tiếp, kiều hối và phát triển du lịch, nông nghiệp và một số ngành công nghiệp phụ trợ gắn với xuất khẩu. Nhiều cơ hội kinh doanh và triển vọng thị trường xuất khẩu sẽ khởi sắc gắn với tiến trình thực hiện các cam kết hội nhập quốc tế của Việt Nam...

Môi trường kinh doanh sẽ có nhiều cải thiện nhờ những nỗ lực trong nước, cũng như từ triển khai theo cam kết trong khuôn khổ những FTA mà Việt Nam đang và sẽ tham gia; hạn chế được các tranh chấp thương mại quốc tế nhờ những kinh nghiệm và năng lực thích ứng mới.

Nền kinh tế sẽ có độ mở, tính chất tự do hóa và quốc tế hóacao hơn. Áp lực và sự cạnh tranh bình đẳng và hợp tác kinh tế đều tăng lên. Các dòng đầu tư ngoại vào Việt Nam và dòng vốn Việt Nam đầu tư ra nước ngoài cũng sẽ gia tăng nhanh hơn về quy mô, đa dạng về cơ cấu và lĩnh vực, cũng như các chủ đầu tư. Kiều hối sẽ đa dạng hơn và tiếp tục tăng chậm về quy mô. Cơ cấu kinh tế sẽ có sự chuyển dịch mạnh hơn theo hướng phát triển công nghiệp phụ trợ và tham gia chuỗi cung ứng quốc tế, trước hết với các nước thành viên tham gia FTA với Việt Nam. Các ngành du lịch, nông nghiệp, thủy, hải sản sẽ tiếp tục tăng trưởng thuận lợi. Những lợi thế tiềm năng về biển sẽ tiếp tụclà hướng đầu tư khai thác rất mạnh và hiệu quả trong những năm tới.Các nhóm hàng chủ lực xuất khẩu của Việt Nam sẽ đa dạng hơn, nhóm ngành dệt may, giày dép và gạo có khả năng cạnh tranh nhờ giảm hàng rào thuế quan và mua được nguyên liệu giá rẻ, giúp giảm chi phí sản xuất. Các doanh nghiệp cũng có thêm cơ hội tham gia đấu thầu mua sắm công. Quá trình tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước và các ngân hàng thương mại sẽ được đẩy mạnh hơn. Các hoạt động M&A cũng được thúc đẩy cả bề rộng và bề sâu, nhất là trong lĩnh vực ngân hàng, bất động sản, sản xuất và kinh doanh hàng tiêu dùng, dệt may, chế tạo cơ khí... Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục đóng vai trò là động lực quan trọng của tăng trưởng kinh tế, nhất là xuất khẩu. Thị trường tài chính sẽ tiếp tục gia tăng các dòng vốn ngoại và sự phát triển các quỹ mở.

Những triển vọng trongphát triển kinh tế - xã hộinăm 2016 và các năm tới tùy thuộc vào kết quả thực hiện các đột phá chiến lược, tái cơ cấu nền kinh tế gắn và chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của nền kinh tế; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, phát huy dân chủ; phát triển công nghiệp phụ trợ và nâng cao tỷ lệ nội địa hóa nguồn cung cấp nguyên liệu; kiểm soát tốt an toàn tài chính vĩ mô, nợ công, nợ xấu, sở hữu chéo và điều tiết dòng tín dụng; giữ vững, củng cố và khai thác động lực lòng tin cho quá trình cải cách và phát triển đất nước và doanh nghiệp.

________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 3 - 2016

(1) Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về các văn kiện Đại hội XII của Đảng do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trình bày tại buổi khai mạc Đại hội XII sáng 21-1-2016.

TS Nguyễn Minh Phong, Báo Nhân Dân

Nguyễn Trần Minh Trí, Viện Kinh tế chính trị thế giới, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam

Theo Tạp chí lý luận

Tâm Trang (st)

Bài viết khác: